Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc... Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục. (http://vi.wikipedia.org)
------
Dễ hiểu nhất và đúng nhất về thầy Phật và thầy chùa.
Tại
sao cha ông ta gọi sư là thầy chùa?
Thầy
ở chùa có còn ở các chùa hiện nay không?
Gã
mời bà con đọc bài viết của nhà giáo Thái Hạo, một người am hiểu Phật giáo với
lối viết dung dị, dễ hiểu để chúng ta thấy đa số các chùa ở nước ta hiện nay
đang bị biến dạng như thế nào.
Phật
giáo là một trong những rường cột Đức của Dân tộc. Phật giáo biến dạng- Đức
biến dạng.
"
1, Phật giáo là gì?
Phật
giáo là một hệ thống tư tưởng có nguồn gốc từ Ấn Độ, do một người có tên
Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni) sáng lập.
Ông
là một Thái tử, đã kết hôn và có con; nhưng vì cảm nghiệm thấy cuộc đời nhiều
khổ đau nên đã quyết tìm con đường giải thoát.
Sau 6
năm gian khổ, trải qua nhiều phương pháp thực hành khác nhau, đến năm 30 tuổi
ông đã giác ngộ (thấy được chân lý của vũ trụ, nhân sinh và đạt tới hạnh phúc
trọn vẹn).
Sau
đó, ông dành cả cuộc đời còn lại (đến 80 tuổi) để truyền đạt tư tưởng và hướng
dẫn đường lối tu hành cho mọi người.
Tất
cả những lời giảng của ông được tập hợp lại sau đó, được gọi là Kinh Phật.
Như
vậy, Phật giáo vốn KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO, nó là một hệ thống tư tưởng
triết học có tính hiện sinh, dùng để áp dụng vào đời sống để tránh những lầm
lạc và đạt tới mục đích cao nhất là hạnh phúc (viên mãn) bằng con đường của trí
tuệ sáng suốt dựa trên nỗ lực và sự tự chủ của cá nhân mỗi người.
Như
thế, Phật là một ông thầy giáo - người có năng lực trí tuệ và lòng bi mẫn đã
dành cả đời để giúp đỡ mọi người bằng cách “khai dân trí” cho họ.
Chùa
là trường học của nhà Phật, kinh là sách giáo khoa, đệ tử là học sinh.
Mỗi
người đến chùa là đang thực hiện con đường học vấn theo phương pháp của nhà Phật.
Tuyệt
nhiên không cần cúng bái, lạy lục - nếu có lạy cũng để tỏa lòng tôn kính và
biết ơn thầy minh; không cần bày ra các lễ lạt rườm rà hình thức gây lãng phí
và làm mê muội nhân tâm.
Ngày
nay, khi ông thầy sáng lập đã qua đời thì công việc giáo dục ấy được trao vào
tay những vị thầy chùa (sư).
Những
người Phật tử đến chùa không được biến những vị sư này thành những thần thánh,
hãy chỉ coi họ là thầy giáo, và kính trọng họ như kính trọng những vị thầy giáo
(nếu họ có đức hạnh).
Xin
nhớ rằng, họ không có quyền năng gì trong việc ban phước giáng họa cho ta cả;
cái lợi ích (nếu có) thì là do sự chân thành học hỏi và kiên trì thực hành đúng
phương pháp từ lòng nhiệt thành giảng dạy của thầy chùa mà có.
2/ Tu Phật
Tu Phật là gì? Tu là sửa mình, sửa lại cái
sai bằng cách suy nghĩ, nói năng, hành động đúng. Tụng kinh, ăn chay, niệm
phật, ngồi thiền, cúng dường…sẽ không phải là tu nếu nó không lấy việc sửa mình
làm mục đích. Nếu một người Phật tử làm một hành động nào đó, như ăn chay chẳng
hạn, để mong được ban phước (hay được phước đức) thì đó không phải là một người
Phật giáo!
Cái ý muốn ấy là ý muốn của kẻ tham lam và
ích kỉ, chỉ muốn đổi chác bằng cách bỏ ít để lấy nhiều; nó đồng thời là một sự
mê tín khi không hiểu rằng ăn chay là cách nuôi dưỡng tình yêu thương với động
vật, lòng yêu thương ấy sinh ra năng lượng tích cực và niềm hạnh phúc tự sinh
khởi từ tâm ý tốt lành ấy; con người sống tốt lành, vô cầu vô dục thì trí tuệ
sáng suốt, và đồng thời sẽ nhận được tình yêu thương từ mọi người mọi vật. Vì thế
mà cuộc sống mỗi ngày một hạnh phúc và tốt lành hơn.
Vậy thì tu cái gì? chỉ có 3 chữ: GIỚI -
ĐỊNH - TUỆ.
Giới là sự ngăn giữ mình trong khuôn khổ
đạo đức để không phạm vào những tội ác (giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói
dối...);
Định là làm cho tâm yên ổn lại bằng cách
trụ vào 1 đối tượng nào đó (ví dụ như trụ vào hơi thở - luôn biết hơi thở vào -
ra chứ không để ý nghĩ lang thang chỗ khác) để đạt tới trạng thái quân bình.
Tuệ là quan sát, suy nghĩ, tư duy đúng đắn
– phải thấy biết được bản chất của thế giới và đời sống một cách chân thật
(thấy được sự dời đổi vô thường, thấy được bản chất của đời sống là khổ, thấy
được cái “tôi” là giả...)
Tất cả mọi tông phái của Phật giáo đều là
tu Định, tức làm cho tâm an trụ lại, chứ không để bị rơi vào tán loạn, rong
ruổi mà đánh mất “chánh niệm”.
Khi tâm định lại rồi thì trí tuệ sẽ sáng
suốt, như nước lặng thì mặt trời hiện, mây tan thì mặt trăng tỏa rạng.
Xin nhớ rằng, mọi sự thực hành trong đường
lối của Phật giáo là đều nhằm để khắc chế cái tâm động loạn và vô minh này. Và
mọi sự “tu hành” phải lấy việc hướng nội làm tông chỉ.
Hướng ngoại tìm cầu đều là đường tà.
Cho nên mới có câu “Phật tại tâm” là vì thế.
Nhưng tại sao? Phật giáo giải minh rằng:
Mỗi người đều vốn có trí tuệ sáng suốt viên
mãn (tức là có tâm phật), nên Thích Ca mới nói “ta là Phật đã thành, các ông là
phật sẽ thành”, chỉ cần nỗ lực, siêng năng đúng phương pháp thì sẽ khai mở được
cái trí tuệ đang bị vùi lấp bởi vô minh kia (tham sân si) mà đạt tới trạng thái
tâm sáng suốt và hạnh phúc chân thật (gọi là Niết Bàn).
Như thế, Phật giáo chuyên chở một tinh thần
nhân bản sâu xa và tư tưởng tự do tiến bộ mà ở đó con người được đề cao với địa
vị chưa từng có. Và những người Phật giáo phải tự tin và tự lực mà khai mở lấy
cái trí tuệ vô giá đang bị chôn lấp kia chứ không phải ném cuộc đời mình cho
Phật hay Bồ Tát nào cả.
Thích Ca Mâu Ni nói “tin ta mà không hiểu
ta là phỉ báng ta”.
Cái
sự “không hiểu” này, cộng với thói tham lam cố hữu đã biến những người theo
Phật giáo thành những kẻ mê tin dị đoan, biến một tư tưởng tiến bộ và đầy nhân
văn thành một thứ tôn giáo mà ở đó cuộc sống của mỗi người lại bị ném ra cho
những vị thầy (Phật) của mình. Phật - vị thầy giáo trí tuệ đã bị những người
"theo Phật" biến thành một thần linh có khả năng ban phước giáng họa!
Họ đã
không muốn trở thành con người tự chủ, tự do; mà ngược lại, từ trong vô minh,
họ đã biến mình thành những nô lệ của lòng tham, biến mình thành kẻ yếu hèn và
bạc nhược khi gửi gắm cuộc đời mình cho những “thế lực” bên ngoài.
Người
đến với Phật giáo là để thành tựu lý tưởng tự do; trở nên sáng suốt hơn, dũng
khí hơn chứ không phải để sống kiếp ăn mày nơi cửa Phật.
Tình
trạng mê tín mịt mù trong xã hội Việt Nam ngày nay cần phải được tẩy uế bằng
cách rọi ánh sáng của chánh pháp và tiếp nhận các thành tựu của khoa học nhân
loại như Phân tâm học, vật lý lượng tử... để mong cứu chuộc lấy nhân tâm.
Trách
nhiệm ấy thuộc về những người quản lý, những nhà khoa học và những nhà giáo
chân chính như là một cách thực hành từ bi đối với chúng sinh theo lời Phật
dạy."
Giáo sư ĐẶNG ĐÌNH ÁNG qua đời
GIÁO SƯ ĐẶNG ĐÌNH ÁNG
NHÀ TOÁN HỌC VỚI CHIẾC SÁO BẠC
KHÔNG CÒN NỮA!
Trong sự nghiệp của tôi, tình thương là tinh thần dẫn dắt. Cả sự nghiệp của đời tôi là đào tạo. Muốn dạy giỏi, người thầy phải nắm vững những kiến thức mới mẻ nhất.
ĐẶNG ĐÌNH ÁNG
Nghệ thuật quan trọng nhất của người thầy là đánh thức niềm vui sáng tạo và nhận thức.
ALBERT EINSTEIN
Hiền tài là nguyên khí của quốc gia.
THÂN NHÂN TRUNG
GS Đặng Đình Áng (16. 3. 1926− 29. 8. 2020). Ảnh năm 1995 của gia đình
Chúng tôi vô cùng đau buồn xin báo tin Giáo sư Đặng Đình Áng, người thầy, người chồng, người cha, người chú, người bạn đồng nghiệp, sau nhiều năm trọng bệnh đã vĩnh viễn ra đi lúc 10 giờ 07′ sáng ngày 29. 8. 2020, hưởng thọ 94 tuổi. Tuy biết rằng rồi ai cũng phải ra đi, nhưng chúng tôi không tưởng tượng nổi sự mất mát của con người đã hằn sâu trong ký ức của bao nhiêu học trò, của Đại học Khoa học Sài gòn từ hơn nửa thế kỷ, đã dành nhiêu bao nhiêu công lao và tình cảm cao quý cho nhiều nhiều thế hệ sinh viên cũng như đồng nghiệp, và được bao nhiêu người mến thương. Nay GS Đặng Đình Áng đã vĩnh viễn trở về lòng đất mẹ. Ông có lẽ là một trong rất ít nhà giáo dục khoa học của Sài gòn những năm 1960 còn sót lại. Cả một thế hệ từng xây dựng nền đại học Sài gòn lần lượt ra đi.
Đương thời, ông nghĩ về quê hương và con người qua câu nói sâu sắc:
Quê hương là dải đất, có núi có sông, có cây cỏ, có những con người cùng chung quyền lợi vật chất và tinh thần, nhưng không phải chỉ là thế, sâu xa hơn thế là các nấm mồ người đã khuất. “Chính tro tàn của người quá cố đã tạo ra quê hương”, một văn hào Pháp, trong một bài thơ bất hủ về tình yêu quê hương, đã thốt ra như vậy.
Giờ đây quê hương có thêm nấm mồ của ông, một đứa con đã sống trọn vẹn và cống hiến với hết cả trái tim của mình cho sự nghiệp giáo dục đất nước và chan hòa trong tình yêu quê hương. Cái tính yêu đời, lạc quan, khoan dung, nhân hậu, tôn trọng người khác, tính nghệ sĩ, tình yêu tha thiết toán học, yêu âm nhạc, yêu quê hương, yêu văn hóa, là những đặc điểm nổi bật ở ông.
Không ai làm toán ở miền Nam trước 75 và cả Việt nam sau 1975 không biết đến GS Đặng Đình Áng. Ông là một người gốc nhà nho, cháu 7 đời của danh-hiền Đặng Đình Tướng, một trong 4 danh hiền thời hậu Lê bên cạnh các bậc danh hiền Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông được đào tạo theo Tây học, là học sinh trường Bưởi đến Tú Tài I, rồi được học bổng Fulbright sang Mỹ học, đậu tiến sĩ năm 1958 ngành hàng không học, cũng là thởi điểm thế giới, nhất là Hoa Kỳ bị sửng sốt về vệ tinh Sputnik đầu tiên (1957/58) của Nga được phóng lên quỹ đạo trái đất.
Ông là người đã mang toán học hiện đại vào phía Nam đầu thập niên 60, được giao chức vụ Khoa trưởng Khoa toán của Đại học Khoa học Sài gòn lúc 34 tuổi để làm cuộc cải cách giáo dục toán ở đại học, cùng với cuộc cải cách đại học, phong trào chuyển ngữ cả miền Nam đang diễn ra lúc đó. Ông đã đem ngọn gió mới vào đại học, gây một sự hưng phấn trong các sinh viên toán. Toán học không những được hiện đại hoá mà còn được nâng cấp lên bậc Cao học. Sinh viên được hướng dẫn bước vào đường nghiên cứu và có thể công bố kế quả nghiên cứu của mình ở những tạp chí quốc tế, dưới sự hướng dẫn của vị giáo sư trẻ vừa tốt nghiệp. Ông vừa dạy, vừa nghiên cứu, vừa tự học thêm. Tinh thần đại học của Humboldt – sự kết hợp nghiên cứu và giảng dạy − thấm đượm ở ông.
GS Đặng Đình Áng là một tấm gương lớn của sự tự học và phấn đấu. Ông đã tự học để thi tú tài I ở Hà nội, rồi Tú Tài II ở Sài gòn, tự học Anh ngữ, rồi tự học tại đại học Kansas để rút ngắn chương trình cử nhân, tiếp tục tự tìm tòi học hỏi khi về Việt nam làm việc, và như thế trong suốt cuộc đời nghiên cứu và giảng dạy của ông. Ông khiêm tốn nói: “Tôi rất thích học, thời Pháp học, thời gian vào Sài gòn học, ở CalTech học, về đây tiếp tục học, bây giờ cũng còn học, học những bậc thầy đi trước”. Đó là một tinh thần tự lập, một đặc tính của những nhà nghiên cứu có sức phấn đấu cao. Điều kiện làm việc của các nhà khoa học Việt nam tuy rất eo hẹp, tài liệu, báo chí khoa học rất khan hiếm, đại học Saigòn còn non trẻ, thiếu thốn nhiều thứ, nhưng giáo sư vẫn giữ vững nghiên cứu và ‘đánh thông’ con đường giao lưu với đồng nghiệp nước ngoài, bảo đảm cho nghiên cứu vẫn tiếp tục một cách thành công.
Tấm gương của ông là tận tuỵ chăm sóc sinh viên. Ông nói: “Cả sự nghiệp của đời tôi là đào tạo. Muốn dạy giỏi, người thầy phải nắm vững những kiến thức mới mẻ nhất. Muốn nắm vững, bản thân ông thầy phải có đóng góp chứ không thể nhắc lại kiến thức của người khác”. Ông luôn luôn tin tưởng vào con người Việt Nam: “Đây là mảnh đất tốt, rất màu mỡ, rất nhiều hạt giống tài năng” và “Tôi tin tưởng rất nhiều vào tiềm năng của người Việt nam ta, đặc biệt là của lớp trẻ. Tuy nhiên, muốn biến tiềm năng thành hiện thực thì phải biết tổ chức, phải có thầy. Thầy là những người có khả năng chuyên môn cao, có đạo đức nghề nghiệp và quan tâm đến học trò”. Thầy cũng đã có lời khuyên quý giá cho những người trẻ: “Đừng háo thắng mà không đi xa được, việc học cũng giống như chạy marathon 42 km, phải biết giữa sức, những cây số đầu không mấy quan trọng, không học nhồi học nhét, không ham ánh hào quang hảo huyền, làm sao để càng về sau sàng khổng lồ, đó mới là kết quả thực sự.”
GS là một con người văn hoá và của âm nhạc. “Anh tôi (Đăng Đình Hưng) và tôi là những người đầu tiên trong gia đình đi vào âm nhạc. Chúng tôi cảm thấy âm nhạc chảy trong máu vào lúc chúng tôi tiếp xúc vói nó. Và bây giờ thế hệ của Đặng Hồng Quang, Đặng Thái Sơn tiếp nối.” Ông say mê tiếng sáo tre từ nhỏ ở làng. Chiếc sáo bạc ông mua ở Mỹ năm 1956 trở thành một người người bạn đồng hành “bất khả ly thân” của ông, giống như chiếc đàn vĩ cầm của Einstein. Ông đã bắt đầu hoà nhạc với Viện Văn Hoá Đức Goethe từ năm 1973. Người ta vẫn thường thấy ông biểu diễn trên sân khấu, nhất là những lúc có hội thảo toán học quốc tế. Ông không những thích âm nhạc riêng cho mình, “mà ông thật sự quan tâm tới đời sống, sinh hoạt âm nhạc, với giới hoạt động âm nhạc tại thành phố này” như nhạc sĩ Đặng Hồng Quang nói. Ông cùng với các nhạc sĩ Nguyễn Bích Ngọc, cựu phó giám đốc nhạc viện thành phố và Đặng Hồng Quang, trưởng khoa bộ môn piano, thành lập nhóm nhạc thính phòng Hoa Sen nhằm tổ chức những buổi hoà nhạc cổ điển cho giới khoa học với sự tham gia của các nhạc sĩ trong và ngoài nước có tính cách nghiệp dư. Mục đích sâu xa của GS là nâng cao và mở rộng trình độ văn hoá trong giới khoa học. Ông cũng là người rất yêu thích văn chương, yêu thích các nhà văn của Tự lực văn đoàn, và những nhà văn cổ điển Pháp.
Thổi sáo năm 2006 lúc ông mừng sinh nhật 80t
Đại diện của báo Tuổi Trẻ tặng hoa và quà
GS là con người Tây học nhưng có một tâm hồn đầy ắp bản sắc Việt nam. “Tôi thổi Mozart bằng tâm hồn Việt. Thổi để không quên dân ca mình. Tôi ăn món ăn nước ngoài cũng bằng dạ dày Việt. Ăn để thấy các cụ nhà ta thật sành…ẩm thực”. Ông là một khuôn mặt đại biểu, một đại sứ của Việt nam trong mắt các đồng nghiệp nước ngoài. Ông luôn luôn hãnh diện làm một con người Việt nam một cách rất tự tin.
Tại thời điểm 1975, những tình cảm đối với quê hương, sinh viên, đại học, đã chiến thắng những câu hỏi đi hay ở. Ông quyết tâm ở lại, chấp nhận chịu đựng và chia sẻ, đóng góp và tiếp tục dẫn dắt các thế hệ sau. Ông tin vào những “thửa đất vàng” của Việt Nam cần được chăm bón tốt hơn. Năm 1980 ông là một trong những người được phong hàm Giáo sư đầu tiên của nước Việt nam thống nhất, cùng với GS Hoàng Tuỵ, Phan Đình Diệu và một số người khác.
Ông đã có hơn 130 công trình nghiên cứu toán học có giá trị được công bố ở nước ngoài, nhiều sách giáo khoa và chuyên đề. Ông đã đào tạo 12 tiến sĩ trong nước có những công trình tương đương với tiến sĩ thế giới. Ông được nhiều đại học Mỹ, Pháp, Anh, Nhật, Đức mời đến đọc thuyết trình, được làm khách mời báo cáo tại nhiều hội nghị quốc tế, và được trao nhiều học bổng nghiên cứu tên tuổi quốc tế. Nhiều học trò ông hiện đang tiếp tục đào tạo sinh viên ưu tú toán để gửi đi du học. Lực lượng toán học ngày càng đông, và rất nhiệt tình lên đường tiếp nối. Một số khác đứng trên bục giảng các trường phổ thông trung học. Năm 1996, để kỷ niệm GS 70 tuổi, một hội nghị quốc tế đã đươc tổ chức tại TP Hồ Chí Minh với sự tham gia của gần 30 nhà toán học nước ngoài. Điều đó nói lên sự trân trọng của cộng đồng toán học nước ngoài đối với những đóng góp toán học và uy tín của GS Đặng Đình Áng.
GS Đặng Đình Áng là ngọn cờ toán học ở phía Nam, một cây đại thụ đem bóng mát lại cho nhiều thế hệ phát triển, và tiếp tục ngày càng đông đảo hơn. Ông là người tạo hình cho những tâm hồn toán học đầu tiên Việt nam, thu hút và đánh thức những tài năng có dịp đến với ông. Ông là một nhân cách vượt trội, và là một con người văn hoá, một nghệ sĩ sống hài hòa với vương quốc âm nhạc. Tất cả những gì qua tay ông đều mang tính nghệ thuật. Tư duy, khám phá toán học và sống hài hòa với âm nhạc là những niềm vui của ông, bên cạnh niềm vui được sống hạnh phúc trên quê hương, bên mái ấm gia đình. Ông sống bình dị, nhân hậu, chân thật, vượt lên mọi cái xấu. Gặp ông, thế giới của cái xấu, của sự chối tai tan biến nhường chỗ cho một thế giới hài hoà, trong sáng và thi vị.
Một nhà toán học tiên phong thành đạt, say mê toán học, tận tuỵ với sinh viên, một tấm gương văn hoá, một nhân cách, một con người nhân hậu, giãn dị, một tấm lòng dạt dào tình cảm quê hương, một nhân tố kết nối thế giới: những tố chất đó đã hội tụ trong một con người mà xã hội không phải dễ có được.
Khát vọng của một cuộc hành trình tri thức đến với ông tự bao giờ? Nó đến từ lúc còn bé như ông đã kể cho người cháu ruột, nghệ sĩ nhân dân Đặng Thái Sơn:
Mỗi lần về thăm làng, chú lại ra tắm ở cái hồ lớn, rồi nhìn về núi Trầm. Lúc đó, lại nhớ da diết những ngày còn bé, chú cùng bố Hưng thường ra đấy. Hai anh em cùng nhìn lên núi, mỗi người theo đuổi một ước mơ riêng. Về sau, chú thường tự hỏi: “Có phải chính ngọn núi này đã khơi dậy trong hai anh em những khát vọng ở đời?”
***
Giờ đây chúng tôi vĩnh viễn mất đi một người thầy dẫn dắt, thương yêu và truyền cảm hứng trên đường toán học, một người luôn luôn biết sống trong “hiện tại và bây giờ”, giữ cho mình không gian sống tự do và sáng tạo trước mọi hoàn cảnh khó khăn. Một người thầy luôn luôn vẫn giữ được nét trẻ, hồn nhiên và thánh thiện, như Einstein. Ở ông, tri thức có thể tăng trưởng qua tự rèn luyện, và thực tế luôn luôn là như thế, nhưng nhân cách của ông là cái gì thiên phú, chỉ có phát triển thêm và thăng hoa. Nếu nhà triết học Đức Johann Gottlieb Fichte nói rằng học giả là người nghệ sĩ tự do, freier Künstler, thì ông đúng là mẫu người như thế với sự cảm thụ nghệ sĩ đặc biệt. Và âm nhạc, như Gottfried Wilhelm Leibniz nói, cũng chính là một dạng của toán học: “Âm nhạc là sự thực hành số học ẩn khuất của một tinh thần vô ý thức đang tính toán”. Phải chăng chính cái gen âm nhạc của ông đã có duyên bén rễ sang vương quốc toán học?
Ông không phải là týp người chạy theo vật chất. Ông sống rất đơn giản, và thấy hạnh phúc khi tìm thấy cái lớn lao trong cái đơn giản đó. Ông cũng không chạy theo danh vọng, cái không thay thế được những giá trị tinh thần, đạo đức, văn hóa và tình yêu đích thực đối với toán học và con người, và cái có thể có nguy cơ đánh mất những giá trị đích thực đó. Một con người khoa học đích thực không thể không có cuộc sống đơn giản, nhưng sâu sắc, và đầy lý tưởng.
Ông lao động mà không biết tuổi hưu, không biết khái niệm “về hưu”, không có sự chấm hết tình yêu đối với toán học, vẫn miệt mài nghiên cứu cho đến khi căn bệnh làm cho ông bất lực lao động. Bởi vì với ông, toán học là tiếng gọi chứ không phải là một nghề. Ông là týp người khoa học lý tưởng mà xã hội và văn hóa Việt Nam đang cần tới để xây dựng một nền văn hóa mới. Ông là một con người khoa học tiêu biểu của một quốc gia văn minh và phát triển. Ông là nguyên khí quốc gia.
Xin cám ơn Thầy đã bao nhiêu năm luôn luôn dẫn dắt, uốn nắn, là động lực sáng tạo, niềm vui, là biểu tượng của một nhân cách đẹp đẽ, của con người văn hóa, là sự chia sẻ ngọt bùi trong những năm tháng khó khăn nhất, để cho nhiều thế hệ học làm nhà nghiên cứu, và học làm người. “Thầy ra đi”, như người học trò Trần Thạnh của những nhăm sau 1975 viết, “nhưng di sản tinh thần Thầy để lại sẽ được các lớp học trò nhiều thế hệ gìn giữ và phát huy, để nền toán học Việt Nam có một chỗ đứng xứng đáng trên diễn đàn toán học thế giới”. “Gương sáng này nhiều anh em”, như người sinh viên trong lứa đầu Phạm Gia Thụ viết, “cũng như tôi, đã và đang theo đuổi, để tiếp tục xây đắp căn nhà toán học Việt Nam, tân tiến nhưng lúc nào cũng nhân ái”.
Trong sự thương tiếc vô hạn, xin mãi mãi cám ơn Thầy, và ghi tâm khắc trí những lời thầy dặn: sống theo tấm gương cao quý của Thầy, có tinh thần tự lực, cố vượt khó khăn, kết nối với thế giới, trung thành với khoa học, sống chia sẻ và chan hòa, và có trách nhiệm đối với quê hương.
Xin vĩnh biệt Thầy.
Nguyễn Xuân Xanh
Thay mặt cho các đồng môn
Thông báo lễ tang: Lễ nhập quan: 19h00 cùng ngày. Lễ viếng: chủ nhật ngày 30. 8. Lễ động quan: thứ Hai, 31. 8 lúc 6h30′. Địa chỉ: 162 Điện Biên Phủ, Q. 3, TP HCM
(II)
TIỂU SỬ
GIÁO SƯ ĐẶNG ĐÌNH ÁNG
1926:
Giáo sư Áng sinh ra ngày 16 tháng 3 tại làng Thuỵ Dương, huyện Chương Mỹ, gần núi Trầm, tỉnh Hà Đông cũ (Hà Tây). GS là cháu 7 đời của cụ Đặng Đình Tướng, một danh-hiền thời hậu Lê. Học trường Bưởi đến hết phổ thông. Tự học để thi Tú tài I ở Hà nội. Tú tài II tại Saigon.
1950:
Lập gia đình với Cô Minh Thi
1951:
Một mình vào Saigon, dạy tiếng Anh để sống và tự học.
1953:
Sang Mỹ du học tại đại học Kansas, học bổng Fulbright, học kỹ sư hàng không.
1955:
Tốt nghiệp kỹ sư hàng không tại đại học Kansas; được một giải thưởng của Viện Hàng không học Hoa Kỳ ở Fort Worth, Texas, cho bài báo về dòng chảy nhớt có thể nén được.
1957:
Học tiếp và đậu bằng Thạc sỹ tại Viện CalTech ngành hàng không và toán học.
1958:
Đậu bằng Tiến sĩ về toán cơ học tại Học viện kỹ thuật California (Ph.D., Aeronautics and Mathematics, CalTech) và giảng dạy 2 năm tại đó.
1960:
Trở về VN, được bổ nhiệm làm Trưởng Ban Toán tại Đại học Khoa học Saigon (tức Khoa toán, lúc đó 34 tuổi, và ông giữ chức này cho đến năm 1975). Bắt tay vào việc cải tổ đào tạo đại học, hiện đại hoá chương trình dạy toán, đưa vào dạy mới những môn như tôpô, đại số hiện đại, giải thích hàm. Cải tổ cách thi “thách đố” cũ đã có lúc đánh trượt gần hết trong số 300 sinh viên chứng chỉ Math Géné (Toán học đại cương). Lúc bấy giờ tất cả giáo sư ngành toán đều là người Pháp.
1965:
Mở chứng chỉ “toán học thâm cứu” cho bậc sau cử nhân để nâng cao trình độ sinh viên và hướng đi vào nghiên cứu sớm (các sinh viên cử nhân giỏi có thể ghi danh học chứng chỉ này trước khi hoàn thành cử nhân).
1975:
Về những sự kiện lịch sử năm 1975: “Tôi ở lại vì thấy ở đây tôi làm việc được. Tôi tìm thấy niềm vui trong công việc. Trước đây khi tốt nghiệp ở Mỹ, ông cũng quyết định về nước.
1980:
Được nhà nước phong danh hiệu Giáo sư, trong đợt phong giáo sư đầu tiên sau 1975 (chung với GS Hoàng Tuỵ, Phan Đình Diệu).
1988:
Chủ tịch Hội Toán học Thành phố. Sau này là chủ tịch danh dự.
1995:
Tháng 12, Hội thảo quốc tế mừng sinh nhật 70 tuổi. Lần đầu tiên một Hội nghị Toán học Quốc tế với chủ đề “Giải tích và Cơ học Môi trường liên tục” được tổ chức tại TP HCM, do Hội Toán học Việt Nam và Hội Toán học TP chủ trì, có sự tham gia của 20 nhà toán học nước ngoài, với 45 bài báo cáo có giá trị được xuất bản trong một Proceedings của Hội Toán học TP HCM.
Các công bố:
Có hơn 130 bài báo cáo trong lãnh vực giải tích phi tuyến và cơ học được công bố trên các tạp chí toán học trong và ngoài nước. Ông là tác giả của 6 sách chuyên đề trong giải tích và cơ học, trong đó có một quyển với tác giả nước ngoài được xuất bản bởi NXB khoa học Springer (Đức). Ba sách chuyên đề khác đang trên đường hình thành với các đồng nghiệp nước ngoài, một tại Mỹ, một tại Áo, một tại Đức.
Nghiên cứu và giảng dạy ở các đại học nước ngoài:
GS Đặng Đình Áng đã giảng dạy tại nhiều đại học tên tuổi trên thế giới như:
-Senior Research Fellow in Aeronautics, CalTech, 1962.
-Senior Research Fellow in Geophysics, CalTech 1964.
-Associate Geophysisist, UCLA, 1963.
-Visiting Professor of Mathematics, Instituto per le Appliczion del Calcolo Mauro Picone, Italy, 1984.
-Professeur invité (Mathematiques), Université d’Orléans (1987).
-Visiting Professor of Mathematics, University of Utah (1970, 1988).
-Học bổng Deutsche Forschungsgemeinschaft (DFG Đức) cho một chuyến nghiên cứu 3 tháng tại Đại học Tự do (Freie Universität) Berlin.
-Professeur invité (Mathematiques), Université de Paris 13 (1993).
-Lecturer (Geophysics), University of Cambridge.
-Lecturer (Mathematics) Ecole Politechnique Paris.
-Lecturer (Mathematics), University Tokyo (hai lần).
-Thành viên Ban tổ chức và giảng viên lớp chuyên đề quốc tế về ứng dụng toán học tại Trung Tâm Toán học Quốc tế Stefan Banch, Balan, 1986.
Đào tạo:
Năm 1982 dưới sự hướng dẫn của GS, tiến sĩ toán học đầu tiên (Dương Minh Đức) ở phía Nam tốt nghiệp. Từ đó đến 2006 GS đã đào tạo được tất cả 12 tiến sĩ trong nước, tại đại học tổng hợp TP Hồ Chí Minh, có trình độ quốc tế về các ngành Giải tích phi tuyến và Cơ học.
Con số này không kể đến các sinh viên đã học với GS rồi đi du học nước ngoài, hoặc những sinh viên cử nhân làm giáo viên trung học.
GS là cố vấn của Trung Tâm Phát triển Công nghệ Thông Tin của Đại học Quốc Gia TP HCM, của Viện Cơ Học Ứng dụng thuộc Hàn lâm Khoa học và Công nghệ VN.
Gia đình: Vợ là Cô Bùi Thị Minh Thy. Có tất cả năm người con: Đặng Thị Minh Thúy, Đặng Đình Lanh, Đặng Đình Hải, Đặng Thị Minh Hà và Đặng Thị Bích Thủy.
Sinh hoạt giao lưu văn hoá: GS đã hoà nhạc với Viện Goethe tại Saigon từ năm 1973, và vẫn còn tiếp. Âm nhạc vừa là sự say mê, vừa là cầu nối văn hoá giao lưu với cộng đồng và thế giới.
(III)
Dưới đây là ý kiến, cảm tưởng, nhận định của một số người từng tiếp xúc hoặc đã học với Thầy Áng, góp phần vẽ lên bức tranh về nhân cách và đóng góp của ông.
Giáo sư Phan Đình Diệu viết trong Kỷ yếu mừng GS Đặng Đình Áng 80 tuổi, năm 2006:
Ngay từ cái nhìn gặp gỡ đầu tiên với Anh, tôi đã cảm nhận được có cái gì ấm áp của sự gần gũi, thân thiết như của những người anh em xa nhau lâu ngày gặp lại, mọi cảm giác xa cách gần như tan biến, và câu chuyện của chúng tôi đã qua nhanh những thủ tục xã giao thông thường để đi sâu dần vào những chủ đề của cuộc sống, trao đổi chuyên môn và sự hợp tác chặt chẽ hơn nhằm phát triển nền toán học của nước nhà. Từ chút duyên hội ngộ ban đầu đó, tôi dần quen Anh và vui mừng được cảm nhận nơi Anh sự tinh tế mà thanh thoát trong thú vui tìm kiếm vẻ đẹp của tư duy toán học và cảm thụ nghệ thuật, cái sâu xa mà bình dị trong niềm yêu cuộc đời và đất nước. Và rồi tôi hiểu chính sự thanh thoát bình dị đó đã giúp cho Anh, dù nay đã đến tuổi 80 và hẳn là đã trải qua không ít những nắng mưa của cuộc sống, vẫn còn giữ được vẻ tươi trẻ và cường tráng – tươi trẻ và cường tráng trong sáng tạo toán học, trong niềm say mê nghệ thuật, và cả trong niềm tin vào những gì tốt đẹp của cuộc đời.
Tôi quí trọng và tôn kính Anh vì qua ánh mắt nhìn của Anh tôi cảm nhận được là Anh có một niềm tin âm thầm và vững chắc vào những lựa chọn của chính mình, và chính từ niềm tin đó mà Anh luôn giữ được thái độ khoan dung, nhân hậu đối với cuộc đời, cũng như những tình cảm chân thành, gắn bó với quê hương, đất nước.
Giáo sư Ngô Văn Quế Đại học Montreal viết năm 2006 trong Kỷ yếu:
Đã gần ba mươi năm rồi từ buổi giáo sư Đặng Đình Áng mời tôi tham gia, trình thuyết ở hội thảo toán (séminaire) hàng tuần của giáo sư ở Đại học quốc gia (TPHCM). Đã gần ba mươi năm rồi, thế giới đổi thay, xã hội Việt Nam cũng đổi thay, lên bổng xuống trầm, vàng thau lẫn lộn, phong hoá thay chiều!
Xã hội càng biến dạng, con người càng đổi lốt, tôi lại càng nhớ những buổi hội thảo sao bây giờ quá xa xôi thế. Những giáo sư, những sinh viên đến dự hội thảo để lại bên ngoài những ưu tư đa đoan tức thời. Cảm nhận như vậy, tôi còn tiếc nhớ bao nhiêu hơn nữa những bữa cơm trưa, mỗi khi tôi qua Sài Gòn là chia riêng cùng thày Đặng Đình Áng một mâm bánh cuốn (chính thày tự thân đi mua về) với chả lụa, với nước mắm Phú Quốc nguyên chất cùng mấy chai bia Sài Gòn xanh! Chúng tôi không nói chuyện xa xôi, xã hội chính trị bên ngoài, vì theo tôi, giáo sư Đặng Đình Áng có một triết lý rất rõ rệt là không bận tâm đến những chuyện ngoài đời mà ta không đụng tới được, mà ta không biết rõ những uẩn khúc đen tối…Giáo sư Đặng Đình Áng, toán gia hăng say trong lãnh vực của mình, một thày giáo đạo đức mô phạm. Ở thày có một cái gì căn cơ, bền vững, khiêm tốn trong cái thế giới của mình. Thế giới của văn minh phổ quát (le monde de la civilisation universelle, theo nghĩa của triết gia Paul Ricoeur): khoa học với những sự thật của toàn thể nhân loại, và nếu còn có những gì khác nữa như âm nhạc, thì phải là âm nhạc của Mozart, Beethoven…Thế giới mênh mông tuyệt vời, mà chúng ta mỗi ngưòi phải khiêm tốn biết rằng dù tận tụy tìm hiểu cả đời cũng chỉ có thể đóng góp với một tầm nhìn hạn hẹp trong một khoảng trời nhỏ bé.
Chính cái căn cơ bền vững khiêm tốn đó toả sáng lên những người xung quanh, lên những học trò của thày. Hãy sống nhất quán, chân thành trong thế giới riêng của mình, khát khao tìm hiểu sự thật phổ quát của nhân loại. Nhiều người có thể nghĩ rằng sống như vậy là sống co mình, tù đọng khi xã hội, đất nước đòi hỏi một cái gì lớn lao, thực tiễn hơn. Nhưng khi thiên hạ chạy theo những hoang tưởng phù phiếm, vụ danh vụ lợi đạo đức giả, cúi núp sau những thần tượng bằng đất mạ vàng, biết sống nghiêm túc nhất quán với chính mình thì chính là gián tiếp âm thầm gieo mầm cho những con người của ngày mai biết tìm lại những giá trị thật căn bản gia đình dân tộc, tìm lại phong thái nền nếp của cha ông. Tôi tin rằng những học trò của giáo sư Đặng Đình Áng, nay nhiều người đã là giáo sư tiến sĩ ở các đại học xa gần, thu nhận và sống theo cái gương đó của thày.
Bình thản nghĩ lại, có lẽ tôi còn ưa thích rất nhiều những khoảnh khắc giáo sư Đặng Đình Áng cho tôi nghe tiếng sáo của thày độc tấu hay hoà tấu thính phòng (cùng một hai người thân của Viện Âm Nhạc thành phố HCM). Nhạc Bach, nhạc Haydn…(đặc biệt concerto trio no.3 của Haydn mà thày sở trường ưa chuộng) bay lên thánh thoát làm tôi nghĩ -chắc chắn cũng chỉ là san sẻ những cảm nghĩ cùng thày- rằng say mê tìm hiểu trong toán học không khác chìm đắm trong âm nhạc, trong một thế giới lãng mạn, thoát ly tục luỵ huyền mặc, bí quẫn hoang tưởng.
Nhà hoạt động chính trị lâu năm, và nhà thơ, Trần Việt Phương (mất 2017), người bạn học thân thiết từ nhỏ với ông, viết trong Kỷ yếu:
Tháng 5 năm 1975, tôi vào thành phố Sài Gòn vừa chính thức mang tên Hồ Chí Minh, người bạn đầu tiên tôi tìm gặp là Áng, bấy giờ cùng vợ ở một căn hộ xuềnh xoàng trong một chung cư trên đường Phạm Ngọc Thạch. Gặp nhau, chúng tôi ôm lấy nhau, và Áng nói với tôi một câu tiếng Pháp: “Mình vẫn luôn theo dõi cậu chặt chẽ đấy nhé”. Sau 31 năm xa cách, hình như giữa chúng tôi không có bất kỳ sự cách xa nào.
Từ đó, những người bạn cùng lớp chúng tôi nhiều lần gặp nhau, lúc ở thành phố Hồ Chí Minh, lúc ở thủ đô Hà Nội, biết bao kỷ niệm xưa, biết bao trăn trở mới, biết bao dự định tương lai, và vẫn “cậu, tớ”, “mày, tao” như thời còn trẻ. Lần đầu tiên về lại thủ đô, Áng xúc động và chúng tôi cảm động nghe Áng nói về vẻ đẹp và sức quyến rũ của mùa thu Hà Nội, gió heo may, nắng hanh vàng, trời se lạnh, và của mùa đông Hà Nội, gió mùa Đông Bắc, sương mù Hồ Tây, mưa phùn bụi trong trời rét ngọt.
Tôi vẫn nhớ giữa những năm gian khó trước thời đổi mới, thỉnh thoảng Áng tự đưa tay hoặc nhờ người chuyển cho tôi một gói quà, lần thì mấy lọ đầy các loại vitamin, lần thì một bịch một cân mì chính. Bao giờ tôi cũng chia cho các bạn cùng lớp, dành phần nhiều hơn cho những bạn thiếu thốn hơn. Đó là tấm lòng của Áng đối với bạn học cũ.
Khi mấy người bạn chúng tôi vào thành phố Hồ Chí Minh và đến chơi với vợ chồng Áng (vợ Áng là em gái một người bạn cùng lớp chúng tôi), bao giờ cũng có một khoảng thời gian không thể thiếu. Đó là lúc Áng mở nhạc để chúng tôi cùng nghe những bản nhạc giao hưởng của Mozart, của Beethoven, nghe thấm thía trong một sự im lặng hoàn toàn, mà tôi thấy đậm đà văn hoá và có cả chút gì thiêng liêng nữa.
[…]
Có gì dâng hiến nấy, kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh của Áng, mình xin tặng Áng mấy câu này:
Chuyện buồn đổ cả xuống sông
Chuyện vui giữ lấy trong lòng mà vui
Quên cay đắng nhớ ngọt bùi
Vi vu tiếng sáo sáng ngời toán cơ
Nợ đời trả mấy cho vừa
Bao nhiêu tận tuỵ cũng chưa đủ đầy
Một đời còn mấy năm đây
Xin đem tâm huyết đêm ngày đền ơn
Cố giáo sư Bùi Trọng Liễu, Paris (mất 2010), viết về ông trong quyển Kỷ yếu:
Tôi chỉ gặp GS Đặng Đình Áng có một lần, cách đây đã lâu lắm (có lẽ vào 1983?), cùng ăn cơm ở nhà học giả Hoàng Xuân Hãn ở Orsay, ngoại ô nam Paris; (mà hôm đó cũng có cả các GS Hoàng Tụy và Phan Đình Diệu và các anh chị em trong Nhóm Toán của Hiệp hội khoa học và kỹ thuật ở Pháp). Chuyện trò làm quen, nhưng không có nhiều thì giờ để trao đổi với ông; tuy vậy lần gặp gỡ duy nhất ấy đã đủ để lại cho tôi một ấn tượng tốt, một thiện cảm lớn, nhất là « tiếng lành đồn xa » về ông, tôi đã được nghe từ nhiều năm trước. Sau đó, cũng có một vài lần ông có nhã ý gọi điện hoặc có thư từ hỏi thăm khi ghé qua Pháp. Hôm nay, góp phần mừng thọ ông 80 tuổi, tôi không viết về thân thế, về sự nghiệp, về tài năng, tài nghệ, về sở thích, v.v., của ông, vì những cái đó, đã có bạn bè, đồng môn, đồng nghiệp, môn đệ của ông làm tốt hơn tôi. Tôi chỉ xin viết vài lời về Giáo dục Đào tạo. Tôi muốn được nói với ông : « Tôi không chắc là những ý của tôi – người sống ở xa – đã trùng hợp với những ý của Anh – người tại chỗ – nhưng tôi dám chắc rằng Anh đã nhiều năm trăn trở, cố gắng, vật lộn, để đóng góp hết sức mình với nền Giáo dục Đào tạo nuớc nhà. Chúc Anh đủ thì giờ để thấy những kết quả của cuộc chấn hưng – hay ít nhất là cuộc khởi đầu chấn hưng thực sự – của nền Giáo dục Đào tạo, vì đất nước ta có đủ tiềm năng vật chất và trí tuệ để làm việc đó, nếu có sự quyết tâm ».
Giáo sư Nguyễn Mộng Giao (TP Hồ Chí Minh):
Các học trò của Giáo Sư Đặng Đình Áng kể rằng: Khi vừa bảo vệ thành công luận án Tiến Sỹ Toán ở Mỹ về nước, GS Đặng Đình Áng đã có công lao lớn trong việc đổi mới chương trình ở khoa Toán Đại học Sài Gòn lúc đó. Nhờ những cải cách của GS Áng mà hàng loạt môn Toán mới được đưa vào giảng dạy. Bằng cử nhân giáo khoa thư ra đời, nhiều bất hợp lý trong thi cử được khắc phục ….. Công lao của GS Áng là nhờ ở những cải cách này đã đào tạo được hàng loạt các nhà toán học và cơ học, nhiều người còn làm việc hiệu quả cho đến ngày nay. Có lẽ công lao này nên được ghi lại trong lịch sử phát triển của toán học và cơ học Việt Nam. Bởi làm được điều đó không chỉ đòi hỏi tài năng mà phải là người có tâm huyết với nghề, có nhãn quang rộng, biết cách thuyết phục người khác …..
Quang Hải, GSTS, Nghệ sĩ nhân dân, viết trong Kỷ yếu:
Tôi nhớ lại một lần ra Hà Nội, tôi đến thăm ông Đặng Đình Hưng, có lẽ là lần chót trước ngày ông qua đời (1990). Tôi có nhắc về mối giao tình của tôi với ông Áng, ông Hưng tỏ vẻ bằng lòng. Ông nói rằng rất tự hào vì dòng họ Đặng từ các cụ tổ Đặng Đình Tướng, Đặng Trần Côn đến sau này luôn có những người làm rạng danh non sông Việt Nam. Niềm tự hào của ông Hưng là vô cùng chính đáng, vì có những Đặng Đình Áng, Đặng Thái Sơn, Đặng Hồng Quang hôm nay đã là những người kế tục xứng đáng sự nghiệp của ông cha.
Nguyễn Đình Trí, GSTS Đại học Bách Khoa Hà Nội viết trong Kỷ yếu :
Là một nhà toán học có uy tín trong và ngoài nước, là một người sống chân tình, cởi mở với bạn bè, anh Áng có quan hệ hợp tác và cộng tác với nhiều nhà toán học có tiếng ở nhiều nước. Anh có nhiều công trình viết chung với các đồng nghiệp quốc tế, với học trò. Anh được mời giảng tại nhiều trường đại học trên thế giới, được mời đọc báo cáo mời tại các hội nghị khoa học quốc tế và cũng mời được nhiều nhà tóan học có uy tín của các nước đến Việt Nam dự các hội nghị quốc tế tổ chức tại Việt Nam, làm việc với các nhà toán học của Việt Nam. Trong quan hệ quốc tế đó, tôi thấy anh Áng được bạn bè quốc tế đặc biệt yêu mến và tôn trọng. Tôi nhớ tại hội nghị cơ học quốc tế tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1996 nhân dịp anh Áng tròn 70 tuổi, học trò của anh, bạn bè đồng nghiệp, cả bạn bè quốc tế đến rất đông để dự hội nghị và để chúc mừng anh. Buổi bế mạc hội nghị đó thật là vui và cảm động. Tất cả các thành viên của hội nghị, đặc biệt các đồng nghiệp quốc tế, đã dành cho anh những tình cảm chân thành và sâu sắc.
Anh coi sự nghiệp của anh là sự nghiệp đào tạo, mà đào tạo đại học phải gắn liền với nghiên cứu khoa học, người thầy giáo đại học phải có đóng góp cho khoa học. Với quan niệm như thế anh đã có những kết quả nghiên cứu đích thực, được cộng đồng những người làm công tác khoa học thừa nhận.
Là một thầy giáo, anh rất quan tâm đến sinh viên, đến thế trẻ. Anh đã hướng dẫn cho không ít sinh viên, cán bộ khoa học trẻ bảo vệ thành công luận án tiến sĩ. Các cán bộ đó cũng đã trưởng thành, có người tiếp tục phát triển kết quả nghiên cứu theo hướng của anh. Tuổi đã cao nhưng anh vẫn tiếp tục nghiên cứu và có kết quả nghiên cứu, vẫn tiếp tục hướng dẫn sinh viên và cán bộ trẻ nghiên cứu toán học.
Phạm Gia Thụ, nguyên giáo sư Đại Học Moncton, Canada, viết trong Kỷ yếu 2006 :
Tôi chỉ gặp lại Thầy đầu năm 91, khi được cử về công tác ở Tổng Cục Thống Kê Hà Nội. Sau buổi công tác tôi đã bay ngay vào Saigon để gặp lại Thầy và vài bạn cũ. Lại thăm Thầy ở căn nhà khi xưa trên đường Điện Biên Phủ, tôi bồi hồi gặp lại một người thầy năm xưa với mái tóc nay đã bạc trắng, nhưng vẫn tráng kiện, vẫn ân cần, vui vẻ và nhất là vẫn hăng say khi bàn về toán và khảo cứu. Tôi có cảm tưởng như là thời gian tuy có gây vài thay đổi trên người thầy, nhưng đã ngừng trôi đối với những tình cảm và liên lạc của thầy với các học trò cũ. Đặc biệt tôi cảm phục thầy hơn nữa khi biết là, dù gặp nhiều khó khăn trong việc tìm và đọc tài liệu để nghiêng cứu viết bài, thầy và các học trò vẫn có đều đều bài đăng báo trong những năm đất nứơc có rất ít liên lạc khoa học với bên ngoài. Từ ngày đó đến nay tôi đã về nước rất nhiều lần, và mỗi lần tôi lại có dịp lại thăm thầy để đựơc hân hạnh dùng chung với thầy một bữa cơm, vài lon bia, đôi tách trà, để giữ ngọn lửa toán học thiêng liêng những năm 60 luôn luôn cháy trong lòng tôi.
Để kết luận, Thầy Áng, một toán học gia tài năng, một người thầy tận tụy, một đàn anh khả kính và một con người tình cảm, đã đến với chúng ta khi chúng ta còn non dại trên đường sự nghiệp. Thầy đã không quản ngại dìu dắt rất nhiều anh chị em chúng ta trong hơn 40 năm qua. Gương sáng này nhiều anh em, cũng như tôi, đã và đang theo đuổi, để tiếp tục xây đắp căn nhà toán học Việt Nam, tân tiến nhưng lúc nào cũng nhân ái.
Giáo sư Nguyễn Hữu Anh và Đặng Đức Trọng (2011):
Bài học thứ 3 mà tôi muốn nhắc đến là cách xử thế tuyệt vời của Thầy. Thầy luôn luôn giúp đỡ mọi người, không chỉ riêng học trò của mình qua các việc như là nhận xét một luận án, tham gia hoặc chủ trì Hội đồng chấm luận án Tiên sĩ cấp Nhà nước, và đăc biệt là tích cực ủng hộ họ trong các cuôc họp của Hội đông ngành Toán. Mặt khác, Thầy luôn luôn vun đắp và mở rông các mối quan hệ bạn bè. Từ tình bạn lâu đời với GS L. Knopoff ở UCLA, GS E. Hewitt ở Washington State University, hay GS D. Daykin ỡ Nanyang University, nay là ĐH Quốc gia Singgapore vào những năm 50, 60, đến các quan hệ bạn bè mới sau này như với các GS Alain Phạm, K. Smith, R. Gorenflo, …, Đối với họ, Thầy không chỉ là bạn bè mà còn là cộng tác viên trong những công trình nghiên cứu Toán học. Kể cả những người chỉ thoáng gặp qua Thầy như GS P. Cartier, cố GS M. Boujot, họ luôn giữ tình cảm trìu mến với Thầy nhiều năm sau này.
Trong nước, Thầy là một trong số ít nhà Toán học được giới Toán học cả hai miền quý mến. Từ cố GS Lê Văn Thiêm trước đây đến các GS Nguyễn Đình Trí, Phan Đình Diệu và sau này các GS Nguyễn Duy Tiến, Hà Huy Khoái, Trần Văn Nhung, Ngô Việt Trung và Nguyễn Hữu Việt Hưng, họ luôn nhắc đến Thầy với lòng quý trọng.
Có lẽ để đạt được kết quả này, ở Thầy đã tỏa ra tinh thần thân ái bao la. Đây có thể do ảnh hưởng của Nho gia, mặc dù Thầy theo tân học. Nổi trội nhất trong ảnh hưởng của Nho giáo, qua cách xử thế của Thầy, có lẽ là Đạo Trung Dung. Thật vậy, ở Thầy, Đạo Trung Dung đã được thể hiện một cách tự nhiên và đúng mực nhất. Có lẽ nhờ vậy mà Thầy luôn luôn giữ được thăng bằng, thoát khỏi các cuộc mâu thuẫn kéo dài để có thể tập trung vào chuyên môn. Khi nói đến một con người, Thầy luôn nhìn thấy khía cạnh tốt đẹp ở họ hơn là chỉ nghĩ đến điều xấu. Thầy hay nói “arsenic tuy là một chất độc, nhưng vẫn được dùng để chữa răng”.
Bài học cuối cùng mà tôi muốn nhắc đến là nhân sinh quan lạc quan của Thầy. Có lẽ nhờ đó mà Thầy đã vượt qua những lúc khó khăn trong cuộc sống đầu những năm 60 thế kỷ trước và năm 1975, khi Thầy có cơ hội xuất cảnh ra nước ngoài, nhưng đã chọn ở lại với đất nước, với học trò và đồng nghiệp. Chính nhờ tinh thần lạc quan mà Thầy đã vượt qua được những lúc khó khăn nhất trong bối cảnh khó khăn chung của cả nước đầu những năm 80. Trong lúc điều kiện làm việc không thuận lợi, Thầy vẫn vui vẻ dạy học trò và hàng ngày lấy việc đi bộ ra chợ làm thú vui nho nhỏ. Thầy cũng đã đem tinh thần lạc quan đến cho nhiều học trò của mình. Những năm gần đây, khi ngồi uống rượu vang với tôi, Thầy hay nói “mình ở đây sướng thật!”
Và có lẽ cũng với tinh thần lạc quan đó, Thầy đã lấy các buổi hòa nhạc, nhất là các buổi hòa nhạc của Câu lạc bộ Hoa sen để tô thêm nét đẹp cho các kỳ Hội nghị Quốc tế mà Thầy đứng ra tổ chức. Ở Thầy việc thổi sáo đã được nâng lên từ thú vui tao nhã thành một nghề chơi cũng lắm công phu.
về toán học:
Xin nhắc lại rằng, Thầy vốn là một kỹ sư hàng không và được đào tạo về Toán Ứng dụng (Cơ học Môi trường liên tục) ở tại Học viện Công nghệ California CalTech. Tuy nhiên, đầu những năm 60 thế kỷ trước Thầy về Saigon dạy học, và để mang đến cho anh em chúng tôi những kiến thức mới về Toán Lý thuyết lúc bấy giờ qua các môn Topo, Giải tích Hàm, Giải tích Thực, Thầy đã phải cố gắng tự nghiên cứu rất nhiều. Quả thực anh em chúng tôi trong thế hệ sinh viên đầu tiên, đã rất thích thú tiếp thu những kiến thức mới này, và nhất là phương pháp dạy học bình dị của Thầy: Thầy luôn luôn khuyến khích anh em chúng tôi tự học, tự nghiên cứu hơn là nhồi nhét kiến thức, kết quả là cả chục sinh viên đã dược Thầy trực tiếp hoặc gián tiếp gửi đi đào tạo tiếp ở nước ngoài và đã đạt được những thành công nhất định.
Đến những năm 70, ở tuổi bước qua “tứ thập nhi bất hoặc” để đi vào tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh”, Thầy lại một lần nữa đổi mới nội dung giảng dạy và nghiên cứu sang lãnh vực Giải tích Toàn cục, Lý thuyết Điểm Bất động và Phương trình Vi-tích phân. Kết quả là một lọat luận án Tiến sĩ đầu tiên do Thầy hướng dẫn đã ra đời, trong đó luận án của GS Dương Minh Đức là luận án Tiến sĩ đầu tiên được bảo vệ ở phía Nam sau năm 75.
Sang những năm 80 của thế kỷ trước, dù đã bước vào tuổi 60, Thầy lại một lần nữa đổi mới nội dung giảng dạy và nghiên cứu. Lần này Thầy chuyển hướng sang nghiên cứu về Phương trình Đạo hàm riêng, giải quyết những Bài toán ngược, Bài toán không chỉnh. Hơn phân nửa các công trình nghiên cứu của Thầy đã được công bố trong giai đoạn này. Trong số những người bảo vệ luận án Tiến sĩ trong giai đoạn này và tiếp tục nghiên cứu thành công có thể kể đến Đặng Đình Hải và Lê Khôi Vỹ, hiện đang giảng dạy ở Mỹ và Đăng Đức Trọng, hiện là Trưởng Khoa Toán – Tin Trường ĐH Khoa học Tự nhiên TP Hồ Chí Minh.
Cuối cùng ở tuổi 70 sang 80, các công trình về Phương trình của Thầy Áng đã hướng tới với Cơ học, tình yêu đầu đời của mình. Thầy đã cùng các học trò và đồng nghiệp công bố trên 20 bài báo trong đó sử dụng công cụ Phương trình tích phân phi tuyến, phương trình đạo hàm riêng để giải các bài toán thú vị trong Cơ học và Địa Vật lý.
Cũng cần nói thêm các kết quả to lớn Thầy đã đạt được đã đóng góp không nhỏ vào việc xây dựng nền Toán học ở miền Nam, và qua đó góp phần phát triển nền Toán học của cả nước. Thật vậy trong những năm 50 của thế kỷ trước, khi Trường Đại học Khoa học Saigon còn phôi thai, nước Pháp tuy có gởi sang ta những Giảng viên Toán giỏi, nhưng họ chủ yếu dạy cho sinh viên Việt Nam cách học để thi cử. Thầy Áng đã đào tạo một đội ngũ các nhà nghiên cứu trình độ cao về lĩnh vực Bài toán ngược và Phương trình Đạo hàm riêng. Giám Đốc ĐHQG Tp. HCM luôn mong mỏi hình thành được các trường phái nghiên cứu khoa học của ĐHQG có đẳng cấp quốc tế. Giáo sư Đặng Đình Áng đã thành công trong việc xây dựng một trường phái như vậy về bài toán ngược và phương trình đạo hàm riêng tại Trường ĐHKHTN, ĐHQG Tp. HCM. Vì xuất thân là kỹ sư hàng không, lối giảng dạy của thầy Áng mang tính ứng dụng rất cao. Vì thế, trường phái Toán học tại Tp. HCM có đặc điểm lớn là hướng rất mạnh sang lĩnh vực Ứng dụng Toán học.
Riêng Nguyễn Hữu Anh viết trong Kỷ yếu 2006:
Tôi may mắn là một trong những sinh viên của Giáo sư Đặng Đình Áng có điều kiện được học với Giáo sư những vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực, không chỉ về Toán.
Còn nhớ năm học 1963 – 64, khi mới học năm thứ nhất (chứng chỉ Toán Đại cương Lý, MGP) ở ĐH Khoa học và ĐH Sư phạm Saigòn, chúng tôi thường để ý thấy một thầy trung niên ung dung đi ngang qua sân trường, một tay cầm cặp, một tay cầm ống pipe với vẻ mặt lúc nào cũng tươi vui. Anh em bảo nhau rằng đấy là GS Đặng Đình Áng sẽ dạy chúng tôi nhiều vấn đề rất mới trong năm thứ hai (chứng chỉ Tính Vi tích phân, CDI). Vì thế khi vừa thi xong MGP, chúng tôi đã vội đến văn phòng Ban Toán để mua hai tài liệu Tích phân Lebesgue và Không gian Banach mà các anh học trước đã ghi lại được từ các bài giảng của Giáo sư. Đến khi học CDI, quả thật chúng tôi đã bị choáng ngộp bởi những kiến thức và phương pháp mới. Sau này chúng tôi được biết để có thể truyền thụ cho chúng tôi những kiến thức mới về Toán Lý thuyết, Thày đã phải cố gắng rất nhiều, vì Thày đã được đào tạo từ một kỹ sư Hàng không rồi Tiến sĩ và Post-Doct về Toán Ứng dụng (Cơ học Môi trường liên tục). Trong điều kiện gần như phải làm việc một mình nhưng Thày cũng rất quan tâm tìm kiếm các sinh viên giỏi và tạo điều kiện cho họ vươn lên. Việc hình thành các lớp Cử nhân tài năng sau này cũng xuất phát từ một ý tưởng của Thày. Tuy nhiên phương pháp của Thày là tạo điều kiện cho học trò tự học hơn là nhồi nhét kiến thức. Trong giờ bổ túc kiến thức ở ĐH Sư phạm, Thày thường ngồi nghe anh em chúng tôi tự giải các bài toán khó, thỉnh thoảng mới đưa ra vài lời bình luận. Đấy có lẽ cũng là thói quen nói ít làm nhiều của Thày. Có lẽ cũng do thói quen này mà Thày rất ngại họp hành. Gặp những phiên họp có nhiều người nói dông dài, Thày thường lẳng lặng bỏ ra ngoài. Thày cũng rất ngại khi có người đề cập đến ý nghĩa chính trị của những việc Thày làm, ngay cả khi những việc này mang một ý nghĩa chính trị rất sâu xa. Trước năm 75, khi có người hỏi tại sao Thày không chủ biên một quyển Danh từ Toán học cho miền Nam, Thày nhẹ nhàng nhắc rằng ngoài Bắc đã có một quyển, nếu chúng ta lại làm sẽ khó cho việc thống nhất thuật ngữ Toán học sau này. Sau năm 75 Thày vẫn ở lại với quê hương mặc dù có điều kiện ra đi. Thày vẫn phụ trách Ban Toán, rồi Bộ môn Giải tích để tiếp tục đào tạo ra nhiều thế hệ sinh viên với hàng chục luận án Tiến sĩ. Thày vẫn đứng ra làm Chủ tịch đầu tiên của Hội Toán học TP Hồ Chí Minh. Thày có lẽ thuộc số ít những nhà Toán học Việt nam nhận được sự quí trọng và yêu mến của đồng nghiệp ở cả hai miền. Thày là một trong số những nhà Toán học được Nhà nước phong Giáo sư trong đợt đầu tiên.
Năm nay khi Thày sang tuổi Đại Thọ 80, chúng ta lại bắt gặp một Cụ Đồ, vẫn còn hăng say nghiên cứu Toán, vẫn được sự hâm mộ của nhiều đồng nghiệp trong và ngoài nước qua việc đăng ký dự Hội nghị Toán quốc tế mừng ngày sinh thứ 80 của Thầy. Chúng ta sẽ lại bắt gặp một Nhạc sĩ sáo nghiệp dư nhưng rất chuyên nghiệp. Chắc do mãi bận nhiều công viêc, Thầy đã quên mất năm nay là kỷ niệm 250 năm ngày sinh của Mozart. May là trong lần hai Thầy trò ngồi nhắm rượu vang gần đây nhất, tôi đã tình cờ nhắc đến, và Thày nhất quyết sẽ chơi một bài của Mozart trong chương trình hòa tấu nhân Hội nghị Quôc tế cuối năm.
Tiến sĩ Lê Quang Ánh (California), người đề tặng cho Thầy hai quyển sách của ông về những câu chuyện lịch sử toán rất hay mới được xuất bản tại Việt Nam, nói về người thầy của mình:
Biết là sẽ có ngày này sớm hay muộn thôi, nhưng nghe tin thầy sắp ra đi tôi thấy lòng chùng lại, tiếc là không có mặt để đưa tiễn thầy. Tôi học thầy niên khóa 1964-1965. Chính thầy đã làm cho tôi mê thêm bộ môn Toán mà tôi vốn ưa thích. Chính thầy là người mở đường đưa thế hệ chúng tôi vào không gian Toán mới, kịp với thế giới. Nhìn lại mới thấy hai thập niên 1960- 1970 thầy đã đào tạo bao nhiêu giáo sư Toán cho miền Nam. Công này không hề nhỏ đối với nền Giáo dục thời ấy. Con người của thầy thật thông minh lại độ lượng, thầy có đủ phẩm chất của một người thầy lớn của chúng ta. (Tháng 4, 2018)
Giáo sư Dương Minh Đức (TP Hồ Chí Minh):
Năm tôi vào học 1969, lớp MGP có lối 500 sinh viên và đổ môn này lối 60 sinh viên, còn sau đó một số người sang học Đại học Sư Phạm… Các năm sau đó cũng tương tự. Sau 1975, Thầy Áng hầu như không dạy cử nhân chỉ hướng dẫn Tiến sỉ. Tôi có một số ý tưởng về Thầy Áng như sau:
– Là người mở đầu cho toán học hiện đại cho Miền Nam Việt Nam. Tập hợp và xây dựng đội ngũ giảng viên Việt Nam đủ sức thay thế các giảng viên Pháp về Toán cho Ban Toán học của Đại học Khoa Học Sàigòn.
– Góp phần đoàn kết toán học hai miền Bắc Nam sau năm 1975.
– Mở rộng hợp tác quốc tế về Toán trước và sau năm 1975.
– Truyền dạy cho học trò không những kiến thức toán học, mà còn nhân cách làm người thầy trong xã hội, tấm lòng thương học trò đi sau, lòng tin vào khả năng đóng góp cho đất nước của toán học. (Tháng 4, 2018)
Trần Thạnh, GS toán tại Đại học New South Wales, Sydney, viết cho Kỷ yếu năm 2006 với những lời lẽ rất cảm động về tình thầy trò sâu sắc của thầy Áng:
Trong hoàn cảnh xã hội còn lắm điều làm bận lòng những nhà khoa học, làm trì hoãn sự phát triển, cái gì đã giúp Thầy quên đi những điều buồn phiền để gắn chặt Thầy với mảnh đất quê hương? Theo tôi, có lẻ đó là tình yêu với cái vĩnh cửu, với toán học. Còn nhớ trong những tháng năm vất vả đó, khi cả thầy lẫn trò phải chật vật với miếng cơm manh áo mỗi ngày, Thầy luôn luôn nhắc nhở chúng tôi không được bỏ làm toán. Trong một dịp Tết ở nhà Thầy vào một năm của thập niên 80, bên tách trà và dĩa mứt, Thầy đã tâm sự với lũ học trò chúng tôi “Nạn đói năm 1945 tại miền Bắc thật khủng khiếp. Năm đó Thầy đang học trung học. Nhà chỉ còn chút đỉnh gạo, chỉ đủ nấu cháo cho người già và cho anh của Thầy lúc đó sức khoẻ rất yếu. Thầy phải ra vườn đào củ này củ nọ ăn cho đở đói. Nhưng Thầy vẫn làm toán.” Lời Thầy theo tôi trong suốt những năm tháng sau đó, cả trong những năm đầu khó khăn khi mới ra nước ngoài. Nhiều người khuyên tôi thôi đừng học toán nữa. Tin học lúc đó đang rất thịnh hành, thu hút nhiều người học, với nhiều hứa hẹn công ăn việc làm lương bổng cao. Nhớ lời Thầy tôi chọn ở lại với toán. Trong những năm đầu sau khi tốt nghiệp tôi làm nghiên cứu tại các trường đại học ở Úc, nhưng chưa tìm được việc làm với biên chế chính thức (permanent). Thầy biết tin viết thư sang “Việc làm bây giờ ở đâu cũng khó, ngay cả ở Mỹ. Cái tạm bợ và cái vĩnh cửu”. Tôi hiểu được rất nhiều qua lời nhắn nhủ ngắn ngủi đó. Từ nghìn xưa, chính lòng đam mê với cái đẹp của tư duy toán học, hơn là những cám dỗ vật chất, là chất men để nuôi dưỡng trí tuệ con người.
Nhưng có lẻ khó hơn là trong hoàn cảnh khó khăn như vậy làm thế nào để nuôi dưỡng niềm đam mê đó trong thế hệ trẻ. Không phải chỉ bằng những khẩu hiệu suông, mà bằng những việc làm cụ thể. Có lẻ cần ôn lại thầy trò chúng tôi đã dạy và học toán như thế nào trong giai đoạn đó. Sách giáo khoa và sách nghiên cứu thiếu thốn. Tạp chí khoa học là món hàng xa xỉ. (Tiếc thay điều này hiện nay vẫn chưa khá hơn bao nhiêu, dù rằng nguồn vật chất xã hội dồi dào hơn trước rất nhiều. Lắm khi của cải xã hội lại được đầu tư không đúng chỗ, có khi không lành mạnh cho xã hội.) Chúng tôi phải chép tay các tài liệu mà Thầy có được. Lúc đó kiểu máy photocopy có thể chụp sách như hiện nay là hoàn toàn xa lạ với xã hội Việt Nam. Phong cách làm việc của Thầy vẫn rất khoa học trong hoàn cảnh đó. Thầy hẹn tôi đến nhà Thầy, thường là vào buổi chiều. Tôi ngồi chép ngay tại phòng khách nhà Thầy, trong khi Thầy đang ngồi suy tư, có lẻ đang tìm lời giải cho một bài toán nào đó. Tuyệt đối không được mang sách hay tài liệu của Thầy về nhà, vì ngoài Thầy ra còn nhiều học trò khác cần những tài liệu đó. Không thể để các tài liệu quý báu đó mất đi do sự lơ đễnh của của một người, làm ảnh hưởng đến việc học và nghiên cứu của nhiều người khác. Thường tôi ngồi chép độ khoảng một giờ là Thầy bảo ngưng, đem về học, hôm khác chép tiếp. Đối với Thầy, đúng hẹn là vô cùng quan trọng. Tôi thường đến sớm 5 phút vì sợ trễ, nhưng không dám vào ngay. Tôi đứng ngoài cửa căn nhà đường Duy Tân, nghe tiếng sáo của Thầy vọng ra. Bản nhạc vừa dứt thì cũng vừa đúng giờ tôi phải bấm chuông. Nhiều lần như vậy, sau đó Thầy biết ý. Vừa xong bản nhạc là Thầy ra mở cửa. Cũng vừa giờ hẹn.
Để khuyến khích tôi không ngừng học toán, tránh lãng phí thời giờ và sức khoẻ vào việc dạy luyện thi kiếm thêm tiền, Thầy đã có những việc làm rất cụ thể. Từ sau năm 1981 Thầy được phép ra nước ngoài công tác, nối lại những mối quan hệ trong nghiên cứu trước kia của Thầy. Sau mỗi chuyến đi Thầy đều có quà cho học trò. Khi thì là một xấp vải may quần, thứ hàng xa xỉ thời bấy giờ. Có khi là một chai thuốc bổ Thầy mua từ Pháp hoặc Mỹ (ngày ấy tôi ốm như không còn có thể ốm hơn). Lắm khi là tiền mặt, nhiều hơn nhiều so với đồng lương tháng của tôi lúc đó, lương của một giảng viên chính thức ở đại học. Sau mỗi chuyến công tác nước ngoài, Thầy cũng thường dẫn đám học trò đi ăn. Những dịp như vậy chúng tôi lại được nghe những mẩu chuyện lý thú về chuyến đi của Thầy. Những bài toán mà Thầy và người đồng sự ở nước ngoài không giải ra trong suốt chuyến công tác, nhưng cuối cùng lời giải lại đến với Thầy khi ngồi trên chuyến bay trở về. Chính những việc làm cụ thể này, chứ không phải những khẩu hiệu, là nguồn động lực thúc đẩy lớp trẻ vươn lên với thời đại.
Tư tưởng Nho giáo sắp vai trò của người thầy ở hàng thứ hai trong bậc thang giá trị mà một con người cần tuân thủ: “Quân – Sư – Phụ”. Tư tưởng này ngày nay không còn hợp thời. Văn hoá Việt Nam có một khung giá trị riêng, gần gũi hơn, tình cảm trìu mến hơn. “Công Cha – Nghĩa Mẹ – Ơn Thầy”.
Và tiếp theo, tháng 4, 2018, ông viết:
Dù đã biết trước cuộc sống của một con người không có được cái vô cùng của toán học, thật bàng hoàng khi nghe tin từ người đàn anh khả kính, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Xanh, rằng Giáo sư Đặng Đình Áng sắp sửa ra đi. Vậy là người Thầy của đại đa số những người làm toán ở Sài gòn trong những thập niên cuối của thế kỷ trước sắp vĩnh viễn đi vào cõi vô cùng của nhân sinh và tri thức.
Công ơn của Thầy đối với cá nhân tôi, tôi đã một lần ghi xuống trong tập Kỷ Yếu “Trong Ngần Bóng Gương” năm 2006. Có lẽ còn lâu lắm các thế hệ sinh viên Việt Nam mới có được một người thầy với một khối óc uyên bác và con tim nhân hậu như thế. Thầy là một trong những người đã đặt nền tảng toán học cho miền Nam Việt Nam, không chỉ với kiến thức sâu rộng, mà còn với con tim yêu thương luôn lo toan cho sự phát triển của các thế hệ học trò.
Như một linh cảm báo trước, mới cách đây hai tuần khi đang làm việc tại Mathematisches Forschungsinstitut Oberwolfach (MFO, Viện Nghiên Cứu Toán ở Oberwolfach, Đức quốc), một điều gì đó thôi thúc tôi đi tìm bút tích của Thầy, vì tôi biết Thầy đã đến viện này một lần vào cuối thập niên 80 của thế kỷ trước. Những lần trước đến làm việc ở đây, tôi chưa hề có ý định đó. Sau nhiều đêm tìm kiếm trong thư viện của MFO tôi tìm được bút tích của Thầy ghi lại trong quyển sách tóm tắt các bài thuyết trình hội nghị ở đây. Thầy đã tham dự hội nghị về phương trình vi phân (Gewöhnliche Diferentialgleichungen) tại đây từ ngày 26.03.1989 đến ngày 01.04.1989. Nhìn lại nét chữ quen thuộc rất đặc trưng của Thầy, trong đêm khuya vắng, trong tôi dâng lên một niềm xúc cảm. Ký ức về những năm tháng còn học hỏi dưới sự dìu dắt của Thầy chợt trở về.
Thầy ra đi, nhưng di sản tinh thần Thầy để lại sẽ được các lớp học trò nhiều thế hệ gìn giữ và phát huy, để nền toán học Việt Nam có một chỗ đứng xứng đáng trên diễn đàn toán học thế giới. (Tháng 4, 2018)
Bút ký của GS Áng tại Viện toán học Đức Oberwolfach năm 1989
Hồ văn Hoà, một cựu sinh viên và cựu nhân viên của trường Đại Học Khoa Học Saigon viết từ Úc:
Thầy Đặng Đặng Áng, một Giáo sư nhân từ. Tôi không phải học chuyên Toán, không được hân hạnh là một học trò trực tiếp của Thầy Áng, nhưng rất cảm phục Thầy khi đọc được đôi bài khảo cứu của Thầy và nhất là kính mến lòng nhân từ và giúp đỡ của Thầy khi nhận ngồi trong Ban Giám Khảo buổi trình Luận án Tiến sĩ quốc gia của tôi ngày 17 tháng Ba năm 1975. Trước đó, Thầy đã đọc qua luận án của tôi và đã đề nghị vài sửa đổi cho hoàn mỹ. Ban Giám khảo gồm có Giáo sư Cao Xuân Chuân, Giáo sư Nguyễn Chung Tú và Giáo sư Đặng Đình Áng. Nay thì cả ba Giáo sư trong Ban Giám Khảo đều đã quá vãng. Tôi xin đốt nén hương và báo cáo với quý Thầy là luận án mà quý Thầy đã thảo luận và phê chuẩn cũng đã được Ủy Ban Đánh Giá Bằng Cấp Hải Ngoại ở thủ đô Canberra, Úc Châu, cho là tương đương với bằng PhD ở các Đại học Úc.
(IV)
Một số hình ảnh lịch sử
Siên toán của GS, chụp trên khuôn viên Đại học Khoa học Sài gòn đầu 1960
Thầy Áng với sinh viên toán những năm đầu khi thầy từ Mỹ về
GS Đặng Đình Áng và nhiều người làm toán miền Nam với Đại tướng Võ Nguyên Giáp
tại Hội nghị toán học toàn quốc lần đầu tiên năm 1977 tại Hà Nội
Giáo sư Đặng Đình Áng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1977 tại Hà nội.
Người bên tay phải khuất mặt phải là Giáo sư Lê Văn Thiêm.
GS Áng (bên trái) trong Hội Nghị Cơ học lần III tại Huế, năm 1982,
với GS Tạ Quang Bửu (thứ hai trái) và GS Trần Đại Nghĩa (giữa)
Tại Hội nghị Quốc tế về Giải tích hình học và Cơ học 1993, Stanford, Hoa Kỳ
GS Đặng Đình Áng với hai thành viên của ban nhạc Hoa Sen năm 2000
Giáo sư Đặng Đình Áng trình diễn Thiên Thai trong một buổi
sinh hoạt với Văn Cao và Trịnh Công Sơn tại tư gia cuối 90.
Trong một lá thư gửi cho Đặng Đình Áng, Văn Cao viết:
“Anh Áng thân mến! Tôi và Đặng Đình Hưng mới được nghe đàn flute của anh qua băng – Âm thanh tốt quá và cổ điển quá…. Thèm được nghe đàn của Áng vào một ngày nào đó tại Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Tiếng sáo của Áng khá đậm và khá trữ tình. Mến quá. Gửi lời thăm chị và các cháu. Hẹn gặp lại. 14-2-1977 – Văn Cao”.
GS Đặng Đình Áng (trái) đón cháu Đặng Thái Sơn tại sân bay Nội Bài vừa
đoạt giải nhất Chopin 1980 trở về trong vinh quang và vui sướng tột cùng.
Người đứng giữa là Bộ trưởng Thông tin và Văn hóa Nguyễn Văn Hiếu.
Sinh nhật thứ 80 với cựu sinh viên năm 2006, có lẽ sự kiện vui nhất
Thầy Áng và cô Minh Thi cắt bành sinh nhật
Mừng sinh nhật thứ 90 của GS Đặng Đình Áng, tháng 3, 2015.
Rất cảm động những tình cảm mà các học trò đã dành cho thầy.
Ảnh bìa của số Kỷ yếu mừng thọ 80 GS Đặng Đình Áng
Năm 2006 các học trò và bè bạn tổ chức mộ số sự kiện kỷ niệm thầy Áng 80 tuổi, như tiệc mừng sinh nhật, một chương trình phỏng vấn trên đài phát thanh HTV của thành phố, và đặc biệt xuất bản một số Kỷ yếu để ghi lại cuộc đời hoạt động khoa học, đào tạo và tình cảm được dành cho ông như một món quà sinh nhật. Đây là lần vô cùng vui của thầy, cô. Trong Ngần Bóng Gương là tên đặt số kỷ yếu của nữ sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, bạn chí thân của ông. Bà làm một bài thơ trong đó bốn câu cuối:
Mong Người trọn vẹn ước mơ,
Chúc Người tuổi hạc đang chờ ngoài trăm.
Tám mươi như ánh trăng rằm,
Lung linh huyền ảo Trong Ngần Bóng Gương.
---------
Ba tôi, người đã có một cuộc đời tuyệt diệu
Hoàng Tuấn
Thấm thoát đã một năm kể từ ngày ba mãi mãi ra đi. Một đồng nghiệp của tôi đã viết “Dù biết ngày này không thể tránh khỏi, sự ra đi của bác Tụy vẫn để lại khoảng trống và mất mát. Bác Tụy là một người phi thường trong giới trí thức Việt Nam, không chỉ như một nhà khoa học mà còn là người đấu tranh cho những gì bác tin. Đóng góp của ông cho khoa học, giáo dục và cho dân tộc Việt Nam là vô song. Tôi như mất một người thân vì tôi biết bác. Dường như mới hôm qua bác và bác gái tới Melbourne và ký ức về ăn Bò Bảy Món với 2 bác vẫn sống động. Tôi trân trọng những kỷ niệm như vậy và tôi cảm thấy hãnh diện được biết bác. Bác đã ra đi nhưng di sản của ông luôn luôn còn mãi với chúng ta.”
Giáo sư Pierre Darriulat, người bạn gần gũi của ba đã nói với tôi “Cha anh là người đàn ông phi thường và sự ra đi của ông là một mất mát lớn. Cha anh lo cho đất nước hơn là cho bản thân. Ít có những người thật như vậy”.
Những người bạn của ba đã viết "ông coi công danh phú quí chỉ là phù vân, nhưng phải sống cuộc đời có nhiều ý nghĩa, dù khó khăn đến mấy cũng tin vào một tương lai tươi sáng của Dân tộc ta, một Dân tộc đau thương và quật khởi".
Giờ đây, đọc đi đọc lại bài viết của ba về thủ tướng Phạm Văn Đồng, tôi mới hiểu rõ thêm vì sao ba lại có và sống với niềm tin không dao động như vậy. Ba bắt đầu sự nghiệp như một nhà giáo khi chưa đầy 20 tuổi từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Vào thời kỳ mà người ta dễ dàng buông xuôi nhiều thứ để giữ đất và bảo vệ cuộc sống, dân tộc ta đã có được nền giáo dục xuất thần và phát triển một cách kỳ lạ. Trường Lê Khiết nơi ba dạy, vốn là miền đất nghèo khổ và thiếu học, đã phát triển tới qui mô vượt cả trường trung học thời thực dân ở Qui Nhơn. Cả giáo viên lẫn học sinh đều có niềm tin vào sức mạnh giải phóng của giáo dục với những ước mơ thật lãng mạn. Ít có một dân tộc nào lại làm được đồng thời cả hai việc lớn là đánh giặc và phát triển giáo dục. Ngôi trường Lê Khiết khiêm tốn ở Quảng ngãi đó đã sản sinh nhiều văn nghệ sỹ, nhà giáo, nhà khoa học chân chính. Họ là những người yêu quê hương, yêu con người đến tận đáy tâm hồn và để lại nhiều di sản giáo dục, tinh thần cho thế hệ sau. Rồi vào thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến tranh Việt nam, trong những giờ phút lâm nguy phải sơ tán tránh những cuộc oanh tạc không kích muốn đưa miền Bắc Việt Nam về thời ký đồ đá mà Thủ tướng vẫn cất lên tiếng nói “Khoa học nâng con người ta lên”. Là người làm khoa học đã hơn 30 năm ở những nước phát triển, tôi chưa bao giờ nghe được câu nói sâu sắc như thế.
Tôi không bao giờ quên những lần nói chuyện với ba. Ba đau đớn khi thấy đất nước qua bao thử thách khốc liệt thời chiến lại bỏ lỡ biết bao cơ hội phát triển trong thời bình, những nề nếp giáo dục hay khoa học may mắn có được từ thời chiến không những không được giữ gìn hay phát huy mà bị lụi tàn bởi những quan điểm hẹp hòi mà cứ tưởng là cách mạng. Quá nhiều những thứ phát triển không giống một ai, thương mại hóa không tha một lĩnh vực nào mà vẫn coi đó là phát huy và sáng tạo. Chúng tôi đã tranh luận rất nhiều về lý tưởng, về những cái giá của dân tộc phải trả sau hai cuộc chiến. Tôi vẫn nhớ ba nói ngày xưa trong chiến tranh, những người cộng sản là những người đi đầu. Ba luôn nhắc thế hệ tôi không sống trong bối cảnh đó nên không hiểu được nỗi nhục của một đất nước bị nô lệ. Khi đi dạo dọc bờ sông Hương ba kể say sưa thời thanh niên ba đã bơi qua sông Hương do tụi Tây thách thức. Nhiều lần khi đi nghỉ cùng gia đình tôi, ba và tôi đi dạo riêng nghe ba chia sẻ những day dứt về của ba về thời cuộc, “trong khi khắp thế giới thay đổi, thì VN vẫn cứ kiên định con đường tối tăm, không tương lai, nhiều vị vẫn vô tư, không thấy trách nhiệm, chỉ lo…sắp xếp các ghế ngồi”. Ba hay nhắc chuyện ông Phạm Văn Đồng nói với ba lúc cuối đời “Tôi buồn lắm, buồn vô cùng”. Một lần vào năm 1987, khi tôi chỉ những dòng báo ca ngợi ông Phạm Văn Đồng là vị thủ tướng lâu đời nhất thế giới, ba bảo họ “quên” nói ông Đồng cũng là thủ tướng ít quyền nhất thế giới. Giờ tôi đọc lại bài viết về Phan Châu Trinh của học trò ba thời Lê Khiết. Phan Châu Trinh đã tìm ra nguyên nhân mất nước, dân tộc sa vào vòng nô lệ thảm khốc là ở trong văn hóa, trong sự lạc hậu quá xa về văn hóa của dân tộc so với đối thủ của mình. Ông không chỉ đặt vấn đề độc lập, ông đặt vấn đề xa hơn, căn bản hơn: phát triển, cho văn minh bằng thiên hạ. Bi kịch lịch sử là ông hầu như hoàn toàn cô độc về tư tưởng và đường lối trong thời của mình.
Tôi vẫn giữ đầy đủ những email ba kể vắn tắt những việc ba làm như tổ chức hội thảo hàng tuần về giáo dục và những kiến nghị cải cách giáo dục, sách giáo khoa, rồi cùng các đồng nghiệp ở Viện nghiên cứu phát triển đưa ra những kiến nghị, góp ý, kêu gọi. Đến tận tháng 5 năm 2018, sau khi mẹ tôi mất ít lâu và ba đã bắt đầu yếu, ba vẫn nói sang sảng với tôi về tầm nhìn của lãnh đạo cao nhất trong những giờ phút khó khăn quan trọng như thế nào với đất nước. Ba đặt vấn đề “vậy tầm nhìn ngoài chuyện đánh tham nhũng là gì”? Mấy tháng trước khi mất, ba đồng ý cho xuất bản cuốn “Xin được nói thẳng” tập hợp nhiều bài viết của ba trong thời gian dài trên các báo về những vấn đề sống còn của xã hội. Ba nói ba hy vọng cuốn sách đó kích thích sự đổi mới của đất nước. Các bài viết trong sách được sắp xếp rất khoa học, dẫn dắt người đọc từ phân tích cơ bản những khuyết tật của hệ thống dẫn đến xã hội tham nhũng đầy những khối u dị dạng nên chỉ có tái cấu trúc và sửa lỗi hệ thống toàn diện mới giải quyết được vấn đề. Người tài và bản lĩnh người lãnh đạo là nhân tố quan trọng nhất. Phải có những đột phá trong giáo dục và quản lý khoa học mới có hy vọng dân tộc thích ứng với thời đại kinh tế trí thức thay đổi cực nhanh. Tôi biết vì những bài đó mà có thời các báo được chỉ đạo không được phỏng vấn ba. Tôi biết có báo đã bị ngừng hoạt động 9 tháng và toàn bộ ban biên tập bị kỷ luật chỉ vì đăng một bài của ba. Máy tính xách tay có nhiều bài ba đã viết và đang viết bỗng dưng bị mất cắp. Sức đã yếu lắm mà ba vẫn hỏi về phản hồi của độc giả vể cuốn sách. Có anh Phúc thủ tướng đã gửi thư đến thăm hỏi và phản hồi tốt. Nhớ lần đầu gặp mặt ở Sài Gòn cuối năm 2016, anh Phúc có nói tôi “mình tổ chức sinh nhật 70 năm ba cậu khi còn làm chủ tịch ở Quảng nam đấy”. Tôi lại nhớ được xem video ghi lại quê hương Điện bàn vinh danh ba nhân dịp ba 70 tuổi, ghi lại những lời nói chân thành và mộc mạc của quê hương về ba. Mỗi lần về quê, ba đều kể cho tôi với niềm tự hào. Ba nhắc một Hội An phát triển đàng hoàng một phần nhờ có ông bí thư Sự giỏi và có tầm nhìn.
Ba không chỉ là người cha, ba là người thầy và là thần tượng của tôi, là người dẫn dắt tinh thần và luôn chia sẻ những giờ phút khó khăn nhất. Càng ngày tôi càng thấm lời ba nói sau khi ông Phạm Văn Đồng mất rằng ba thật sự buồn vì ba mất nơi chia sẻ tâm tư, nhiều khi chỉ vài câu ngắn ngủi nhưng động viên thật nhiều. Thật nhớ những dòng ngắn ngủi của ba như “ Con nên giữ sức khoẻ và luôn giữ vững tinh thần, dù khó khăn gì cũng không ngại, miễn mình làm việc đứng đắn, công tâm,. Lao động vất vả, nghiêm túc như con kể thì có gì mà lo. Đừng để khó khăn đè mình xuống mà phải đứng trên mọi chuyện. Ba đã từng gặp những chuyện cực ký căng thẳng hồi ở ĐH Tổng hợp Ba và bác Thiêm bị tụi nó đấu lên bờ xuống ruộng, định quật ngã cả Ba và bác Thiêm nhưng cuối cùng tụi nó cũng chẳng làm được gì minh, dù chúng nó có một lực lượng quan chức mao-it ở cấp trên ra sức ủng hộ. Tất nhiên hồi đó tụi nó gây cho mình rất nhiều khó khăn, Ba cũng có lúc rất nản, nhưng rôi Ba tập trung làm khoa học, chính thời kỳ này Ba nghĩ ra global optimization. Cừ vùi đầu làm khoa học, bỏ ngoài tai mọị chuyện khác, phởt lờ, quên bớt đi, rồi cuối cùng sẽ vượt qua được khó khăn” và “các điều kiện của con như vậy cũng là mãn nguyện rồi, còn cái gì hơn nữa thì xem như phần phụ thêm, có càng hay, không cũng chẳng sao. Nhiều người cũng chỉ mơ ước chừng đó thôi mà. Ai đó nói muốn sống có hạnh phúc thì nên biết chừng nào là đủ, cái triết lý ấy cũng đúng. Ở các nước như Úc thì cạnh tranh trong xã hội là một áp lực, ở đó không thể thoải mái theo kiểu làm bao nhiêu cũng được, mọi nhu cầu đều có thể ỷ lại vào bao cấp, chẳng phải lo nghĩ nhiều-như trong xã hội ảo tưởng vớ vẩn mà bao năm nay, cho đến tận bây giờ, vẫn được đưa ra tuyên truyền lừa dối dân mình”.
Khi tôi nhỏ, ba dạy về phân số để tôi sau đó tự học. Cuối năm cấp 2, ba dạy đọc sách toán phổ thông tiếng Nga để giúp tôi tự tìm sách học thêm. Những cuốn sách tiếng Nga cùng những mẩu chuyện hấp dẫn ba kể trong những bữa ăn về những nhà toán học, rồi tấm gương ba nghiên cứu ngày đêm đã giúp tôi say mê học toán với ước mong theo con đường khoa học của ba. Khi sang học ở Liên Xô, tôi được gặp những người bạn nổi tiếng nhưng bình dị của ba. Tôi hay đến nhà giáo sư Zykov, chuyên gia hàng đầu về lý thuyết đồ thị. Giáo sư Zykov kể hồi ông ở Novosibirsk, ba có đưa một kết quả rất độc đáo về bài toán đồ thị nên có 1 chương trong cuốn sách "Lý thuyết đồ thị" của ông là về phương pháp Hoàng Tụy. Có lần sinh nhật ông, con gái ông bảo ngày sinh nhật là ngày của gia đình nhưng cha tôi sẽ rất vui khi có cậu đến. Hôm tôi bảo vệ chính thức luận án PhD, ông và cả gia đình đến dự làm cả trường tôi ngạc nhiên, họ không tin là có người nổi tiếng vậy đến dự lễ bảo vệ của tôi. Đến ông thầy hướng dẫn của tôi cũng hỏi sao cậu còn quen biết giáo sư Zykov à. Một người bạn khác của ba là giáo sư Rubinstein, nguyên là học trò của Kantorovich-nhà toán học duy nhất đoạt giải Nobel về Kinh Tế năm 1975. Từ những năm 60 thế kỷ trước, khi thế giới còn chưa có thuật ngữ “tin học”, Rubinstein cùng Kantorovich đã đưa ra bài toán giao thông thông tin mà ngày nay thế giới đang nghiên cứu nhiều. Họ trong số những nhà khoa học hàng đầu của Liên Xô đến lập ra thành phố khoa học nổi tiếng ở Novosibirsk. Năm 1987, khi tôi đến Novosibirsk dự hội nghị của sinh viên, Rubinstein đến gặp và đưa tôi về ở nhà ông luôn. Mấy buổi đi dạo cùng ông toàn gặp các cây đa cây đề trong ngành, không là viện sỹ thì cũng giải thưởng Lê Nin hay giải thưởng nhà nước Liên Xô. Sau mỗi lần chào họ, ông hay kể cho tôi những câu chuyện rất thú vị họ được giải thưởng tầm cỡ như vậy vì những công trình gì, những đóng góp gì. Không khí chính trị khi đó thông thoáng hơn và chúng tôi cũng hay nói những chuyện hài hước chính trị. Là người từng tham gia cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại, ông bảo "trên màn ảnh thì cứ làm như tụi Đức ngu lắm, nhưng tại sao đánh nhau với họ khó thế". Ông kể rất nhiều chuyện hay về Kantorovich, người tốt nghiệp đại học khi 18 tuổi, thành giáo sư khi 22 tuổi, và làm ra những công trình được giải Nobel năm 27 tuổi. Kantorovich không những là nhà toán học mà còn là nhà kinh tế học. Ai cũng biết giá cả các mặt hàng của Liên Xô thời đó chẳng theo một qui luật kinh tế nào. Kantorovich có nói rằng nếu chúng ta xuất khẩu cách mạng đi toàn thế giới thì cũng nên để 1 hòn đảo là chủ nghĩa tư bản chứ nếu không thì không biết giá cả các mặt hàng thế nào. Rubinstein nói nhiều về ba, về những công trình của ba về tối ưu đầy cảm phục và đầy sức thuyết phục. Ông nói có nhiều người có những kết quả hay, nhưng để xây dựng được thành một lý thuyết hay như ba thì không nhiều. Ông khuyên tôi hãy tìm vị trí của mình trong khoa học và đi theo con đường của ba.
Giờ đây, sau hơn 30 năm nghiên cứu, điều mà tôi tự hào với bản thân nhất có lẽ là đủ sức và trí tuệ để làm theo những lời khuyên của ba, với tác phong nghiên cứu Hoàng Tụy. Hồi tôi nhỏ, ba hay kể chuyện ba tự học rồi nhẩy cóc, ba nghĩ nên tạo điều kiện để học sinh, sinh viên giỏi có thể nhẩy cóc. Đến cuối năm thứ 3 đại học, tôi muốn tốt nghiệp sớm nhưng không được vì để tốt nghiệp, ai cũng phải học rất nhiều các môn ngoài lề khác như Kinh tế chính trị Mác-Lê Nin hay Chủ nghĩa cộng sản khoa học. Nhưng nhờ vậy và nhờ có "máu" nghiên cứu khoa học của ba, tôi tận dụng được 2 năm cuối tập trung học hỏi nghiên cứu. Luận án PhD của tôi hoàn toàn là kết quả của 2 năm nghiên cứu này, với 3 bài báo đăng trên tạp chí có tiếng của Liên Xô. Điều tôi đáng tiếc nhất có lẽ là không học tiếng Anh nghiêm chỉnh thời nghiên cứu sinh. Triết lý của ba rất đơn giản và dễ hiểu: muốn hợp tác với phương Tây thì cần biết họ đang quan tâm những vấn đề gì, phải có những công trình đăng ở các tạp chí phương Tây, có những bài báo viết tiếng Anh. Tuy có ý thức đọc các tạp chí phương Tây để hiểu xu hướng nghiên cứu của họ nhưng tôi lại không hề học cách viết một bài báo khoa học bằng tiếng Anh. Mãi tới năm cuối thời sinh viên PhD là năm 1990, tôi gửi cho ba 2 bài báo tôi viết bẳng tiếng Nga để ba dịch sang tiếng Anh và đăng ở phương Tây. Lúc đó ba đang ở Áo và ba đã cặm cụi dịch sang tiếng Anh, in lại bài báo (thời đó đây là công việc rất nhọc) và đưa cho đồng nghiệp bên đó xem trước cũng như hỏi ý kiến họ nên gửi đăng ở đâu. Ba không kể nhưng sau này tôi biết, thời gian đó có những lúc ba phải nằm viện mổ răng, đau đến nỗi bác sỹ đã phải gây mê.
Ba có một người bạn Nhật rất đặc biệt là giáo sư Mitsui ở trường tổng hợp Nagoya. Ông chính là người đề xướng và cùng các nhà toán học Nhật đóng góp giúp viện Toán xây dựng nhà khách năm nào. Thần tượng của Mitsui là Hồ Chí Minh nên khi sang thăm Việt Nam ông mua ảnh chân dung Hồ Chí Minh về treo. Bước vào phòng làm việc của ông sẽ thấy ngay ảnh Hồ Chí Minh. Các đồng nghiệp của ông ở Việt Nam sau kể với tôi là hồi đó tìm mua ảnh Bác Hồ rất khó vì ngoài hiệu sách toàn ảnh chân dài. Ở trường Nagoya có một nhóm phản đối chiến tranh Việt Nam thời những năm 70 gồm Mitsui, Torii và Hosoe. Với họ, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp là những tên tuổi lớn. Giáo sư Hosoe là chuyên gia hàng đầu của Nhật bản về lý thuyết điều khiển, ngành của tôi. Năm 1993, tôi liên lạc với giáo sư Hosoe qua giới thiệu của giáo sư Mitsui và được ông mời đến Nagoya làm seminar. Sau seminar đó 2 tháng thì ông mời tôi tới Nagoya một lần nữa. Khi gặp, ông bảo giờ chúng tôi phỏng vấn để tuyển anh làm trợ lý nghiên cứu cho nhóm của tôi, và dẫn tôi sang một phòng có mấy giáo sư nữa để phỏng vấn! Lần đầu tiên trong đời mới nghe từ phỏng vấn và hoàn toàn không chuẩn bị! Ít lâu sau, ông thông báo là tôi đã được nhận. Rồi nhờ có những bài báo tiếng Anh của tôi, trong đó có bài được một giáo sư nổi tiếng ở Boston (Mỹ) khen đã giải quyết được bài toán mà lâu nay bao nhiêu chuyên gia chưa giải được, ông đưa tôi lên làm giảng viên, thay một giáo sư vốn là thầy của ông vừa về hưu. Khi tôi đến chào trưởng khoa kỹ thuật của trường (dean of engineering) để bắt đầu công việc vào tháng 4 năm 1994, tôi được nghe mình là giáo sư trẻ nhất trong lịch sử của trường. Ở Nhật, nhất là trong lĩnh vực kỹ thuật ở những trường lớn, họ thường có bằng PhD tương đối muộn và sau đó làm trợ lý nghiên cứu khá lâu trước khi được làm giảng viên là bậc thấp nhất trong ngạch giáo sư. Chưa hết, sau tôi mới thấy lúc đó chỉ có tôi và một giáo sư lớn tuổi người Bungaria là người nước ngoài trong hàng ngũ giáo sư, chứ trợ lý nghiên cứu người nước ngoài thì hầu như nhóm nghiên cứu nào cũng có, nhiều người trong số họ vốn là giáo sư nữa. Cùng là lý thuyết điều khiển nhưng các vấn đề mà phương Tây quan tâm và Liên Xô quan tâm hoàn toàn khác nhau: lý thuyết điều khiển bên phương Tây nghiên cứu những bài toán điều khiển thực tế, có thật, nhưng lý thuyết điều khiển của Liên Xô bị những nhà toán học thuần túy dẫn dắt nên nghiên cứu toàn những thứ tự tưởng tượng không ai biết để làm gì. Hosoe có nhiều lần nói với tôi sau này rằng thực ra ông chẳng hiểu gì nội dung seminar của tôi cả, nhưng cảm nhận tôi là người làm việc rất hăng say và có kiến thức cơ bản tốt và ông cần người như vậy. Ông nói tự hào về quyết định đúng đắn nhất này! Tôi được làm việc thoải mái chỗ ông 5 năm và ông trở thành người bạn lớn và gần gũi nhất của gia đình chúng tôi. Vợ chồng ông đã ở bên tôi trong bệnh viện khi chờ vợ tôi sinh con. Sau khi ba mất, một lần vợ tôi nói qua điện thoại với ông rằng giờ chúng tôi chỉ có ông như bậc cha chú trong gia đình và vì vậy cuối tháng 11 năm ngoái vợ chồng ông lại lục tục sang Úc thăm chúng tôi. Đến cuối năm, khi nhà tôi đi nghỉ ở Hokkaido, cả gia đình ông cũng lên đó cùng. Con gái tôi khi có tin gì vui về chuyện học hành trước đây bao giờ cũng gọi cho ông nội đầu tiên, giờ thì gọi cho ông Hosoe đầu tiên. Khác với người Việt, người Nhật không gọi nhiều người là bạn, nhưng một khi đã là bạn, họ là những người đáng tin cậy nhất. Cũng như ba, Hosoe là người không nói nhiều nhưng làm thầm lặng và giúp đỡ, che chở người khác rất nhiều. Bước ngoặt quyết định trong cuộc đời làm khoa học của tôi là được làm việc với giáo sư Hosoe 5 năm, chịu khó và đàng hoàng theo lời khuyên và tấm gương của cha mình. Có lần khi nghe vợ tôi nói là sao việc gì tôi đã làm là cũng cố gắng làm đến đầu đến đũa rất mất sức thì ba rất mừng, ba bảo vậy là con giống cha. Trong 5 năm đó, nghiên cứu của tôi cũng chuyển sang hướng mới là áp dụng các phương pháp tối ưu vào các bài toán khó trong điều khiển, và được hợp tác với ba, nghiên cứu học hỏi những kết quả của ba, và ước mơ có được một vài kết quả hay như một số kết quả của ba.
Năm 1997 khi đến Nagoya, ba mừng khi nghe tôi làm việc có kết quả và có nhiều cơ hội thăng tiến. Ba kể chuyện đề xuất với ông Võ Văn Kiệt mở trường Toán công nghiệp, một trong những mục đích là để tạo môi trường làm việc cho những người như "tụi mày". Ba đã rất tâm huyết với dự án đó. Năm sau ba nói ba rất giận ông Kiệt đã không đả động gì thêm sau những lời ủng hộ ban đầu. Mãi về sau ba mới biết dự án này không thực hiện được vì một lý do rất lãng xẹt không phải từ ông Kiệt. Năm 2000, khi tôi hỏi ý kiến ba về chuyện xin vào công dân Nhật để có hộ chiếu đi lại các nước cho dễ dàng, ba nói tổ quốc ở trong tim chứ không phải ở tấm hộ chiếu để đi lại.
Năm 2003, giữa lúc đang ở vị trí nhiều người mơ ước và sắp được bổ nhiệm lên vị trí quan trọng của trường, tôi quyết định rời nước Nhật của nền công nghệ tiên tiến bậc nhất thế giới sang nước Úc phát triển chủ yếu bằng cách đào tài nguyên xuất khẩu thô. Ông hiệu trưởng bảo tôi là "khùng" vì đang ở vị trí như thế ở nước Nhật lại sang vị trí thấp hơn ở nước Úc lạc hậu (về mặt công nghệ). Trước khi rời Nhật, ba cũng qua chỗ tôi. Khi nghe vợ tôi than chuyện phải rời nước Nhật, ba nói ba rất hiểu Tuấn, nó đang ở độ tuổi sáng tạo nhất nên muốn dành hết sức cho khoa học. Ba luôn nói tôi đang có điều kiện mà thời ba không thể mơ được nên hãy hết lòng về khoa học. Hai năm cuối ở trường, do sắp được "đề bạt" nên tôi phải tham gia quá nhiều cuộc họp, khiến còn rất ít thời gian cho nghiên cứu. Giờ tôi vẫn nhớ cảm giác căng thẳng như thế nào khi mỗi sáng đến trường, đang say mê với những ý tưởng khoa học một chút là bị cắt ngang bới cú điện thoại của thư ký "mời giáo sư đi họp". Nói vậy chứ làm sao so sánh được với hoàn cảnh ba những năm 60 thế kỷ trước, khi ba ngày làm việc, tối chong đèn viết kiểm điểm và giải trình chuyện “chuyên môn thuần túy” mà không “hồng”. Có vị lãnh đạo cao nhất của ban Tuyên giáo đã đe: trường đại học không phải là nơi để các anh nghiên cứu khoa học. Không thể tưởng tượng nổi “qui hoạch lõm” của ba đã được ra đời trong hoàn cảnh đó.
Năm 2004, lần đầu tiên gia đình tôi về Việt nam. Ba mẹ tôi rất mừng. Khi nghe con tôi muốn ăn sữa chua, ba bảo để ba đi mua. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy ba đi siêu thị ở Việt nam. Mới mấy hôm mà ba mẹ đã rạng rỡ hẳn vì vui. Năm 2008, tình cờ tôi viết cho ba mẹ là cuộc sống bên Úc khó khăn hơn nhiều so với tôi nghĩ, tiền lương có được bao nhiêu thì cho vào khoản trả nợ nhà băng tiền mua nhà gần hết, thêm các khoản chi phí cho cuộc sống ngày càng tăng nữa thì có khi không đủ. Vậy mà khi bạn tôi về Việt nam công tác, ba mẹ tôi nhờ anh mang sang 10 ngàn đô Mỹ giúp chúng tôi. Hơn ai hết, ba hiểu được những đồng tiền làm ra ở phương Tây đâu có dễ dàng như nhiều người nghĩ. Dù tôi ở đâu, ba cũng quan tâm sao cho tôi tập trung nghiên cứu. Ba mong chúng tôi về nhưng không nói để khỏi ảnh hưởng đến thời gian nghiên cứu của tôi. Chỉ sau khi mẹ tôi mất, khi tôi viết sẽ thăm ba mấy tháng một lần, ba mới trả lời: ừ con về, ba chờ.
Tháng 7 năm 2018 ba bắt đầu ốm nặng. Chị tôi nhắn, mấy hôm nay ba thường xuyên nhắc tôi. Nghe vậy tôi liền gọi để nghe ba. Giọng ba yếu và ba chỉ nói đi nói lại rằng ba rất tự hào về tôi. Tôi nghe vậy buồn hơn là vui vì dường như ba đã thấy không còn nhiều sức, không còn nhiều thời gian trên cuộc đời này. Nửa năm sau, sức khỏe ba có tốt hơn chút và khi gặp tôi, ba bảo: ba mong có sức khỏe để sang Úc thăm gia đình con. Cuối tháng 6 năm 2019, tôi về thăm ba. Biết trước tôi sẽ đến lúc 9 giờ sáng, ba hỏi cô chăm sóc mấy giờ rồi. Khi nghe là 8 giờ sáng, ba bảo: vậy là còn một tiếng nữa con tôi sẽ tới, nó là giáo sư bên Úc. Ba quá vui khi thấy tôi nên chị tôi bảo “Tuấn mà ở lại lâu chắc ba hết bệnh”. Ba vẫn còn nhớ con tôi năm nay thi vào đại học Y và ba bảo ba biết ở các nước phương Tây thi vào trường Y khó lắm. Ba sinh động hẳn lên khi tôi ghé tai ba đọc bưu thiếp tiếng Anh trong trẻo cháu gửi ông nội: “Dear Grandpa, I hope you will feel better soon! I miss you a lot while in Australia, so I hope to see you soon after I complete my HSC this year! Next year I hopefully will stay in Vietnam for a long time so I can visit you often! Stay healthy and happy and I will see you soon. Here is you with your new book” (Ông ơi, cháu muốn ông mau khỏe. Ở Úc cháu rất nhớ ông và cháu muốn thăm ông ngay sau kỳ thi đại học. Năm sau cháu sẽ ở Việt Nam lâu để thăm ông thường xuyên. Khỏe và vui ông nhé và cháu sẽ gặp ông sớm. Cháu vẽ ông cầm quyển sách mới của ông). Nhưng ba biết sức lực của mình và ba nói tôi: chắc lần này con gặp ba là lần cuối nên ba chào con.
3 tuần sau, ngày 14 tháng 7 năm 2019, ba đã ra đi mãi mãi. Như ba đã viết cho tôi cách đây 5 năm “Về phần cá nhân, Ba vẫn luôn thanh thản. Cả đời mình sống tử tế, có trách nhiệm, nên trong tâm bao giờ cũng nhẹ nhàng”, và “Nhiều lần tình cờ trong bệnh viện hoặc trong các buổi gặp gỡ thân mật có những người mình mới gặp lần đầu nhưng cũng bày tỏ với sự ngưỡng mộ chân thành của họ, những lúc ấy Ba cảm thấy đời không đễn nỗi quá bạc bẽo với mình mà xét ra cũng thật công bằng. Mình sống thế nào, dù có những lúc khó khăn, gần như bế tắc, nhưng rồi cuối cùng tấm lòng và sự thanh sạch bao giờ cũng được đền bù xứng đáng, tuy có khi muộn màng”. Ông đã nói với hậu thế “Tôi mong tất cả các bạn tiếp tục con đường dù tôi có chết đi” trước lúc ra đi. Ba ơi, con luôn tự hào là chưa bao giờ có một ý nghĩ nào khác ngoài tiếp tục con đường của ba.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 25-6-20
"Thật sai lầm"...về hiu
https://www.youtube.com/watch?v=eR55wJCoCMY
-------
Czardas - Monti - pianist: Tzvi Erez
https://www.youtube.com/watch?v=eGG-PAL_RcQ&list=RDMlMVagn-ZJw&index=2
--------
Phim hay, xúc động.
"Bài ca người lính"
https://www.facebook.com/watch/?v=1112870652225991
------
Rèn luyện sức khỏe và tinh thần:
(Tướng Nguyễn Quốc Thước)
"Đó là yếu tố tinh thần. Trong cuộc sống, phải biết tạo ra sự cân bằng. Đừng để những thứ mất cân bằng tác động vào mình.
Ai giận mình, ai ghét mình, ai nói xấu mình cũng kệ họ. Khi họ nói xấu mình, mà mình cũng làm vậy với họ, thì chẳng qua mình cũng như họ mà thôi. Hãy kệ họ. Đó là chuyện khách quan, đừng để chuyện khách quan tác động vào con người mình. Mình phải là mình, làm chủ cảm xúc của mình. Mình biết mình, xấu hay tốt đều biết rõ. Khi mình biết mình xấu ở đâu thì mình sửa, còn khi mình tốt, thì dù ai có nói xấu cũng không được. Cho nên, cuộc sống này, vui vẻ thì giữ lại, còn mệt mỏi căng thẳng thì bỏ ra ngoài."
Nguồn: http://cafef.vn/tuong-thuoc-94-tuoi-xet-nghiem-chi-so-suc-khoe-tre-nhu-thanh-nien-va-lan-dau-noi-ve-ruou-thuoc-la-thoi-xau-cua-dan-ong-20191008093415046.chn?fbclid=IwAR3P0f0U6_8g27acjbYJepH-fU-eUB-zM2DZyKwUjgbMIJYeoXRyFHZp6Dk
------
Về nhà giáo Phạm Toàn:
"Phạm Toàn đưa ra một triết lý giáo dục đúng đắn và dễ hiểu, khó ai có thể bác bỏ. Anh nhấn mạnh thứ cần dạy nhất là phương pháp học, và cho rằng tự học là phương pháp học quan trọng nhất: Thầy cô là những người mang món quà duy nhất ấy – tự học – tặng cho học sinh để các em mang theo hành trang đó đi suốt đời mình. Quả thật hầu hết những người giỏi là nhờ tự học, họ đâu có học vì thi cử, học để kiếm bằng cấp. Chính anh là một tấm gương tự học. Nhiều người phàn nàn tại sao cho đến hết đời, Phạm Toàn vẫn chưa có một học hàm học vị nào để tương xứng với các vị khách khác khi được giới thiệu trong các buổi họp. Nhưng một người thông tuệ như anh thì cần gì phải mang những thứ danh hiệu ngày nay có thể mua được? "
Nguồn: http://tiasang.com.vn/-van-hoa/Vai-ky-niem-voi-anh-Pham-Toan-18459
-------
Chọn trường cho học sinh phổ thông:
https://www.youtube.com/watch?v=fx3ShtXvu18
https://www.youtube.com/watch?v=kN6i50K1ebg
https://www.youtube.com/watch?v=O3p0nXjn8HI
------
"Sự suy giảm tính xã hội của các cá nhân – theo tôi, đó chính là hiểm họa lớn nhất mà mạng xã hội nói riêng và công nghệ thông tin nói chung đối với xã hội loài người."
Nguồn: http://enternews.vn/mang-xa-hoi-va-con-nguoi-phi-xa-hoi-hoa-148161.html
-----
Cái nghèo...bán con..
"“Năm ngoái mẹ ở nhà thì lâu lâu còn có cá với thịt ăn, chứ lâu dừ chỉ còn cà với muối không à. Trước khi đi, mẹ còn dặn giúp cha chăm em rồi mẹ về sẽ mua quần áo mới cho cả 4 chị em. Vậy mà chờ mãi không thấy”, Dậu nói rồi quệt nước mắt.
Nói xong, Dậu chạy vào bếp lấy một hông xôi, một bát cà thái mỏng với nước muối đổ vào để các em chấm ăn. Riêng đứa út được Dậu ưu ái cho em thêm nửa con cá mắm. “Em biết mẹ chết vì tai nạn rồi. Nhưng mà sợ mấy em khóc đòi mẹ nên khi nào em cũng nói dối mẹ đang làm rẫy, chờ Tết mẹ về sẽ cho kẹo”, cô bé quay sang khẽ nói với gương mặt đượm buộn."
Nguồn: https://www.phunuonline.com.vn/thoi-su/noi-am-anh-cua-nhung-ba-me-vuot-bien-di-ban-bao-thai-149969/
-----
Lương Duy Hoài - giaohangnhanh
https://www.youtube.com/watch?v=QSwwJ-y0wFg
-----
Học giả Nguyễn Hiến Lê,
"Ông Nguyễn Hiến Lê cao thượng ở chỗ mặc dù tạo ra một sự nghiệp lớn lao vậy nhưng ông xem giá trị đấy nhưng cũng phù du đấy, không cần bám lấy."
Nguồn: https://tuoitre.vn/tac-pham-nguyen-hien-le-don-so-ma-sau-tham-cu-ky-ma-rat-hien-dai-20190112195103137.htm
-----
Tình yêu tổ quốc - lứa đôi
"Một buổi chiều mùa hè năm 1986, Lê Kiên Trung - con trai út của TBT Lê Duẩn lên thăm ông giữa lúc ông đang ốm bệnh. Ông nắm lấy tay con: "Ở lại đây với ba, ba cô đơn quá."!
Ngày hôm sau, ông mất. Lúc đó, bà Bảy Vân đang ở cách xa ông 2000 cây số."
Nguồn: http://soha.vn/nuoc-mat-cua-tbt-le-duan-va-noi-dau-tan-cung-cua-nguoi-vo-ong-khong-muon-bo-20181213001757604.htm
-----
Điếu văn của Bush "con" cho Bush "cha"
"Trong bài phát biểu nhậm chức, Tổng thống 41 của Hoa Kỳ nói rằng, ‘Chúng ta không thể hy vọng chỉ để lại cho con chiếc xe to hơn, một trương mục ngân hàng lớn hơn. Chúng ta phải hy vọng cho chúng biết ý nghĩa của một người bạn trung thành, một người làm cha làm mẹ biết yêu thương, một công dân biết xây dựng căn nhà của mình, cộng đồng của mình, khu phố của mình tốt hơn khi anh ta tìm đến. Chúng ta muốn những người đàn ông, những phụ nữ làm việc với chúng ta nói gì khi chúng ta không còn ở đó nữa? Rằng chúng ta hướng tới thành công hơn bất cứ hai chung quanh? Hay, chúng ta dừng lại hỏi thăm một đứa trẻ bị bệnh đã khoẻ chưa, và ghé một chút để trao đổi vài câu thăm hỏi bạn bè?’"
Nguồn: ndh.vn [đọc]
-----
Sứ mệnh của người thầy - Giáp Văn Dương
...
"Xin thưa, sứ mệnh đích thực của giáo dục là nâng đỡ và phát triển con người. Tương tự như bác sĩ, có thể không chữa được mọi loại bệnh, người thầy cũng không thể dạy cho học sinh mọi điều cần dạy. Nhưng có một điều người thầy có thể làm được, ngay cả khi giáo dục còn chưa có định hướng và triết lý rõ ràng. Đó là: Hãy nâng đỡ và phát triển con người."
...
Nguồn: vnexpress.net [đọc]
-------
Để nhớ một thời ta đã yêu he he...Lã Trọng Thanh guitar + hát
https://www.youtube.com/watch?v=GaTkiHoprP8
-----
"Chúng tôi chia tay với xóm không chồng khi mặt trời đã ngả màu chiều, những người đàn bà tiễn chân đến tận bên kia con dốc. Bóng của họ đổ xuống bên đường lọm khọm, già nua. Tiếng khóc của một đứa bé trong nóc nhà nào đó vang lên. Khuôn mặt những người bà chợt giãn ra, nhường chỗ cho những nụ cười hiền hậu."
Nguồn: Chuyện ở “Dốc không chồng” trên đồi C5 [đọc]
-----
Đối mặt với cái ác - Phan Hồng Giang
"Cụ Khổng Tử ngày xưa đã nói: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Tôi nghĩ câu nói đó thể hiện một mong muốn của cụ nhiều hơn là xác nhận một thực tại. Trong Con Người, phần “Con” - phần hoang dã - vốn rất nhiều. Nó như cỏ dại, không cần chăm bón cũng nẩy nở nhanh chóng, trong khi cái Thiện - cái phần “Người” - thì giống như cây lúa, phải săn sóc kỹ lưỡng mới mong cho ra hạt mẩy căng đầy. Trừ số không nhiều những người tử tế, có thể thừa nhận không ít người mang ý định chủ đạo là cố thu lợi về phần mình, tham quyền, ham danh, hám tình, dễ mê cờ bạc, hút sách... Đây chính là nguồn gốc sâu xa của cái ác, không dễ gì để loại bỏ."
Nguồn: [vanhoanghean.com.vn][đọc]
-----
Vì sao ta cần sống hiện sinh?
Nếu cuộc đời chúng ta không có mục đích cuối cùng, chúng ta sẽ sống ra sao?
[2. Sống “quy mô nhỏ”. Tôi có thể sống không ham tiền của và nhờ thế không vướng vào công việc mệt nhọc, vốn là trọng tâm của cuộc sống với phần lớn mọi người ngày nay. Như Will Smith từng nói: chúng ta cứ mua những thứ chúng ta không cần, với tiền bạc chúng ta không có, nhằm mục đích gây ấn tượng cho những người chúng ta không thích - đó là cách gần như hoàn hảo để khổ sở.
Nhà triết học Đức Nietzsche, thường được coi là “ông tổ” của chủ nghĩa hiện sinh, liên kết khả năng “sống nhỏ nhẹ” với tự do. Phần lớn mọi người dễ trở thành “tài sản của tài sản của họ”; theo Nietzsche, “chúng ta sở hữu càng ít thì càng khó trở thành sở hữu của kẻ khác”.]
Nguồn: cuoituan.tuoitre.vn [đọc]
-----
"Chính vì dạy trước chương trình nên học sinh đến lớp đã biết trước và nắm cơ bản nội dung bài học. Vì thế, không chỉ tạo nên sự chủ quan cho học trò mà tạo nên tính ỷ lại cho các em rất cao.
Điều quan trọng là phụ huynh đang tốn một số tiền rất lớn cho việc làm phi khoa học này.
Chỉ vì mong có thành tích cao, có điểm đẹp mà nhiều người đã vô tình làm thui chột động lực phấn đấu, suy nghĩ của học trò.
Thiết nghĩ, các phụ huynh cũng cần thật cẩn thận khi gửi gắm và cho con mình tham gia học thêm hiện nay.
Mục tiêu nào cũng chỉ hướng tới những con người trung thực, có tri thức để sau này đảm đương được công việc của mình. Nhưng, bên cạnh tri thức của mỗi con người cũng cần lắm nhân cách, sự trung thực.
Vậy nhưng, ngay từ nhỏ thì người lớn đã dạy học sinh không trung thực, không có ý chí tiến thủ thì tương lai của các em sẽ ra sao đây?"
Nguồn: Dạy thêm - sự tiếp tay cho gian dối [GDVN][đọc]
-----
Khoe ảnh người ốm - Hồ Anh Thái
"Một nhà văn nữ có mẹ là nhà thơ cao tuổi, bị bệnh liệt rung và mất trí nhớ. Chị thường từ chối, không cho mọi người đến thăm mẹ, thăm nom lúc khỏe là đủ rồi, bây giờ bà được con cháu chăm sóc chu đáo, sống bình yên trong không gian phù hợp với bà, không cần ai ra vào thêm nữa. Đấy là cách giữ hình ảnh cho người nổi tiếng và cũng là để giữ cho công chúng.
Nhiều người bị chị từ chối vào thăm người mẹ lúc bà gần đất xa trời, quay lưng đi nói nhiều câu thậm tệ, cay cú vì họ có nhu cầu phải nhìn tận mắt người đấy già ốm thế nào để kể và tả lại cho người khác nghe. Chị bảo, chị biết rõ những người đến thăm cũng chỉ thuộc một trong bốn kiểu người kể trên, thậm chí tệ nhất là kiểu người số 4.
Thôi, xin cảm ơn, chị nói, xin để cho người ốm được bình yên."
Nguồn: tienphong.vn[đọc]
-----
Và theo chia sẻ của T.S Alan Phan, “Muốn kiếm được nhiều tiền hãy quên chuyện tiền. Hãy nghĩ đến công việc, sự đam mê của mình và chăm chú vào đó. Khi anh làm một việc gì thành công, giỏi giang; anh có một kiến thức rất chuyên sâu về bất cứ một ngành gì tiền sẽ tự động tìm tới anh.”
Nguồn: facebook [xem]
-----
Lúa vẫn trĩu hạt trên đất Phù Tang.
"Khi đi, tôi hình dung mộ của Honda sẽ thật hoành tráng, tọa lạc giữa chốn đông người để cho thiên hạ chiêm ngưỡng. Nhưng không, ông đã chọn một ngọn đồi xa xôi hẻo lánh để về. Mộ của ông nằm trong khoảnh đất nhỏ, có tấm bia đá ghi tên Honda. Một tên tuổi dựng nên một thương hiệu tráng lệ, làm kinh ngạc cả thế giới, là niềm tự hào của đất nước Nhật Bản nhưng chỉ vậy thôi, chỉ có thế thôi"
[đọc]
-----
Niềm an vui - ca khúc Phật giáo
https://www.youtube.com/watch?v=xRseEu_KM4s
Sự sống thay đổi mà không mất đi - ca khúc Công giáo
https://www.youtube.com/watch?v=CRcWhAcwcu4
------
Ghita + mái lá
https://www.youtube.com/watch?v=T6PfMRmK-4Y
Buông - ca sĩ Triều Linh - Minh Đức - ghita Thiên An
https://www.youtube.com/watch?v=K8gTwmyCO64
-----
Bông hồng cho Mẹ
Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông…
Đỗ Hồng Ngọc
(Vu Lan 2012)
Phổ nhạc bài thơ trên của Võ Tá Hân - ca sỹ Thu Vàng [youtube]
-----
"Những kiểu dạy và học hủy diệt
Đơn cử như việc giải một bài tập toán học, mà một trong những hệ quả quan trọng nhất thu được, là rèn luyện khả năng tư duy và lao động độc lập. Việc tìm ra lời giải hay không, không hẳn đã quan trọng, vấn đề chính là trẻ được tập luyện, vận dụng kiến thức đã học, vào giải quyết một vấn đề cụ thể. Nhưng người lớn chúng ta, đã làm hỏng quy trình này bởi rất nhiều nguyên nhân và quy cách khác nhau. Để rồi người ta không chỉ tước đi thời gian được suy nghĩ độc lập của con trẻ, mà còn đưa trẻ vào cuộc chạy đua, biến đầu óc chúng thành những cái túi chứa đầy những bài tập cùng lời giải, và những bài văn mẫu...
Người ta nói nhiều đến các phương pháp giảng dạy, nhưng tất cả đều vô nghĩa, nếu những bài giảng thiếu vắng cảm xúc của người giảng. Hướng dẫn cho học sinh về một bài văn viết, hay một lời giải cho một bài tập toán, sẽ không thể hiệu quả, nếu chính người giảng, đã không hề tự làm, cũng như làm tốt những bài đó. Câu chuyện về những bài tập mà cả thầy và trò đều không làm, mà họ chỉ xem đáp án, hay những bài mẫu từ các cuốn sách, để rồi vẫn giảng, vẫn chữa, vẫn thi..., là một thực tế đau lòng. Vì người ta không tự làm, nên cũng không biết nó khó đến đâu, cũng như có ý nghĩa gì. Bởi vậy mà công chúng được chứng kiến những bài tập quá khó, quá xa lạ với trình độ của cấp học, cũng như sự vô nghĩa của nó. Một nền giáo dục mà thầy trò chỉ ra sức chạy đua tích cóp những dạng mẫu-hình thức,chuyển tải những "mẹo vặt" của con người, rõ ràng là một kiểu giáo dục lừa dối và hủy diệt!
Đừng bắt trẻ học vì khát vọng của người khác
Thật nguy hại cho phát triển của một đứa trẻ, nếu chúng được nuôi dưỡng, lớn lên trong những sức ép nặng nề bởi những khát vọng chủ quan, phi nhân tính, phi khoa học của cha mẹ, hoặc thầy cô. Giấc mơ con cái trở thành những kẻ nổi trội, hay thần đồng, đã khiến không ít gia đình đã đầu tư thời gian, tiền của và sức lực vào những đứa trẻ, khiến tuổi thơ của trẻ chỉ còn là một chuỗi ngày bơi trải mông lung. Chúng ta đã từng nghe những câu chuyện đau lòng về những học sinh, không sao đáp ứng nổi tham vọng của cha mẹ. Họ không cần biết năng lực thực tế của con trẻ đến đâu, mà chỉ nhất nhất bắt trẻ học ngày học đêm, học thêm để phải đạt giải, phải vào đại học tốp đầu, làm rạng danh gia đình, họ hàng."
Nguồn: Đừng bắt trẻ học vì khát vọng của người khác! [đọc]
-----
Làm thế nào để có thể tự do tài chính thực sự?
"Mọi người đều cho rằng phần khó nhất là kiếm được thật nhiều tiền, sau đó mọi thứ sẽ được sắp xếp đúng chỗ. Chắc bạn biết rất nhiều người không hạnh phúc, dù có nhiều tiện nghi vật chất hơn bạn. Chắc bạn cũng biết nhiều người hạnh phúc, dù kiếm ít hơn bạn. Thực ra, tâm lý tài chính của bạn mới là phần cứng đầu hơn cả.
Sau khi bạn thoát khỏi vòng xoay cơm áo gạo tiền, rất dễ bị quyến rũ bởi việc cạnh tranh tài sản hay quá thoải mái với những tiện nghi vật chất. Cuộc vật lộn để đạt được tự do tài chính xảy ra cả ở bên ngoài và bên trong bạn: kiếm đủ tiền và rèn luyện kỷ luật tinh thần để giữ số tiền đó không kiểm soát bạn.
Ngưỡng chi phí sống thấp, tối ưu hóa chi tiêu, kiếm nhiều tiền nhất có thể, tự động hóa tài chính…là những chìa khóa để mở cửa một cuộc sống giàu có và ý nghĩa hơn."
Nguồn: happy.live [đọc]
-----
Bác sĩ Phi Bình...
"Trên từng bước đường đó là đôi mắt dõi theo và tâm tư của anh Phi Bình. Anh đã nói như năn nỉ để tôi chấp nhận đề nghị, anh thở dài ngao ngán trước mớ thủ tục hành chính khó khăn, anh đi quanh quẩn hỏi từng bộ phận để đáp ứng thắc mắc cùa lập trình viên. Anh bỏ tiền túi để rủ lập trình viên đi nhậu quán góc vỉa hè để nói lời cảm ơn, trân trọng. Anh nêu ý kiến, gửi yêu cầu để phần mềm ngày càng thêm hoàn thiện. Một vài đồng nghiệp bối rối trước máy tính, anh tự tay đi hướng dẫn sử dụng. Anh làm tất cả những điều đó trong lúc phải chữa trị cho cái u gan ngày càng lớn.
...
4 giờ sáng hôm nay anh đã về lòng đất mẹ.
Có thể anh đã không để lại nhiều tiền bạc cho gia đình vì bác sĩ chuyên khoa tâm thần có mấy ai giàu có. Tuy nhiên, cái mà anh đã để lại là sự tận tụy, chân thành, cầu tiến để mong cho bệnh viện tốt hơn. Một trong những điều mà anh để lại là đã xúc tiến một hệ thống quản lý bệnh án cho bệnh nhân vận hành cho đến nay."
Nguồn: fb bác sĩ Phan Xuân Trung [đọc]
---------
Đọc để thấy "hồn quê" ...
Xách vali lên và đi đâu đó... tác giả Nguyễn Thị Hậu - nguoidothi.net.vn [đọc]
"Buổi sáng hay chiều mát thả bộ trên đường lang thang ra tới “thị tứ”, đi trên lề đường lát gạch mà thảm hoa vàng trong vườn nhà ai vẫn chờm ra che kín, chim sâu lách chách, lá dừa lá xoài xào xạc, lại thêm mấy con chó cứ lẽo đẽo đi theo (người tuổi tuất), thoang thoảng ngai ngái mùi chuồng gia súc quen thuộc như thời xa xưa... Chỉ vài ngày ở “nhà quê” nhưng đã mang lại cho “người thành phố” một sự an yên còn hơn là “thiền”, để một lần nữa có thể bình tâm “nhìn theo đường hun hút còn xa, xin cám ơn những điều đã qua...”"
---------
GS Lê Kim Ngọc - vợ của GS Trần Thanh Vân - học bổng Odon Vallet - Vnexpress [đọc]
...
"Bà hoàn toàn có thể tự bằng lòng với đóa hoa tâm hồn, nhưng bà còn đi xa hơn, bà hướng đến người khác. Bà luôn chìa tay đến những người khốn khó nhất với tâm hồn nhân ái. Sự nghiệp cuộc đời bà là minh chứng: "Tiền bạc và danh dự có thể tan như mây như khói, chỉ lòng trắc ẩn và tình yêu thương tha nhân mới có giá trị vĩnh hằng", Tổng thống François Hollande nói.
...
---------
Caregiving là gì? - blog Nguyễn Huỳnh Mai [read]
---------
Nhà báo Như Quỳnh
...
Kỹ sư Lê Võ Bạch Thông, con trai bà, kể: Về hưu, bà dịch sách tài liệu tiếng Hoa và tiếng Pháp, đồng thời làm cố vấn tiếng Hoa cho báo Sài Gòn giải phóng tiếng Hoa. Ở tuổi sáu mươi, bà lại cắp sách đi học. Nối nghiệp cha, bà học Đông y. Bà chữa bệnh từ thiện không lấy tiền, nhiều khi bà lặn lội ra Bắc lên vùng núi Ba Vì tìm mua lá thuốc của người Dao cho bệnh nhân. Nhiều người đến thăm bà tại nhà riêng trên đường Trần Tuấn Khải (quận 5, thành phố Hồ Chí Minh), thấy chỗ ở khiêm tốn, đã tỏ ý không bằng lòng.
Theo họ, bà xứng đáng được ở chỗ đàng hoàng hơn. Bà chỉ cười, dùng câu đối của Ngô Thì Nhậm với Đặng Trần Thường mà đáp rằng: “Thế Chiến Quốc thế Xuân Thu/ Gặp thời thế thế thời phải thế”.
...
[ANTG]
---------
Bác sĩ: Trịnh Hồng Sơn
"...
Còn một nguyên nhân sâu xa xuất phát từ chính trái tim tôi. Tôi làm việc ở Việt Đức mấy chục năm đã thành thân quen, giống như đứa trẻ con lưu luyến mẹ mình. Tôi quen thân từ bệnh nhân đến bác sĩ, thân với cả những người bán trà đá trước cổng viện. Có chị bán trà đá ngoài cổng còn bảo tôi: "Nếu anh bị ai "bắt nạt" cứ bảo em, đừng ngại"! (cười).
...
Tô Lan Hương: Vậy nếu phải lựa chọn giữa làm chuyên môn và làm nhà quản lý, anh sẽ chọn…
BS Trịnh Hồng Sơn: Tôi sẽ chọn chuyên môn! Cách đây không lâu tôi có mổ cho bố một người bạn. Ông cụ đã trên 90 tuổi, là một bác sĩ có tên tuổi trong ngành y, rất giống tôi ở chỗ cũng đã từng từ chối làm Giám đốc Bệnh viện.
Ông quý tôi lắm. Trước lúc lên bàn mổ đã nắm tay tôi dặn rằng : "Sơn ơi, cậu phải nhớ rằng cậu là bác sĩ, trước tiên luôn là bác sĩ". Làm bác sĩ là để đi cứu người, chứ không phải để sân si quyền chức. Đó cũng là điều tôi tâm niệm và dạy học trò mỗi ngày!"
---------
Dưỡng chất vô hình (Nguyễn Ngọc Tư)
"...Chỉ biết Tết được nuôi bằng thứ dưỡng chất mông lung đó. Những đứa con không bao giờ biết bà mẹ tưới tắm Tết bằng gì, mà bao nhiêu năm nó vẫn màu sắc ấy, hương vị ấy. Và bên phía đòi dẹp Tết, dù đã kéo vào đội mình những nhạc sĩ, giáo sư, chuyên gia, biến cuộc tranh luận vượt ra ngoài cổng nhà, đã đưa ra những lý lẽ khó mà bắt bẻ, cũng không sao làm hao hụt thứ dưỡng chất không hình khối, không thể phân chất trong lòng những bà già. Là tình yêu, thói quen, hay bản năng, chính họ cũng không rõ. Chỉ biết mẹ của họ mùa nào cũng dành một công đất cấy nếp, để dành tới Tết quết bánh phồng.
Tết tiếp tục hay dẹp bỏ, không bao giờ bà mẹ nảy ra câu hỏi đó. Có nghe thì cũng lơ đi, như thể nó không dành cho bà. Mấy đứa con nghĩ chừng nào má mình còn, thì Tết không bao giờ mất. Giả sử một ngày nào đó lệnh cấm tết được ban ra, bà mẹ vẫn giấu mấy trái xoài sứt sẹo trong thùng gạo, chờ tới giao thừa bày lên bàn thờ gia tiên, thắp nén nhang rì rầm nói chuyện với hư vô, và cong người che giấu đốm lửa nhỏ bé kia, sẵn sàng nuốt thứ khói bị người đời ruồng bỏ vào lòng, mà không cảm thấy chút nào cay đắng."
Nguồn: chép một đoạn từ trang của bác THD
---------
Tác giả Chu Văn Sơn viết về thầy Nguyễn Đăng Mạnh
"Tôi định nói rằng, đời nó thế. Sang đó lại hèn ngay đó. Có cái ngỡ hèn mà hoá sang. Có cái tưởng sang trọng mười mươi, lại tầm thường, nhếch nhác. Có sự phế truất mà sang. Có sự lên ngôi mà nhếch nhác. Có cái nhếch nhác đắc thắng. Lại có cái thất thế vẫn cao sang… Phải tự tín lắm mới luôn tin rằng cái Sang là một giá trị giữa đời này. Và cũng phải lãng mạn lắm thì mới hằng tin rằng sự sang trọng chân chính nhất ở một con người chính là sự sang trọng của tư tưởng. Những thứ ấy đời dễ cho là viển vông, mơ hồ, thậm chí, còn nguy hiểm nữa. Người ta còn mải bận tâm, bon chen vì những gì gì kia, những phú quí, vinh hoa, tước hiệu, những ghế gẩm này khác chẳng hạn…"
Nguồn: Nguyễn Đăng Mạnh: Từ bục giảng đến văn đàn (vietnamnet.vn)
---------
21 bộ phim nên xem:
http://chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/21-bo-phim-truyen-cam-hung-hay-nhat-moi-thoi-dai.html
Ghi lại các bộ phim đã xem (rảnh sẽ xem từ từ)
- 4: Ba chàng ngốc (3 idiots)
- 10: Cuộc đời Forrest Gump (Forrest Gump)
-------
Văn hóa "tiết Tiểu mãn"....
...
---------
Minh triết (lấy về từ trang của bác THDũng)
---------
Nhà văn Nhật Chiêu:
"Ở tuổi gần 70, khi được hỏi: "Điều gì ông chờ đợi và mong ước phía trước?", Nhật Chiêu bật cười dẫn lại tác phẩm Waiting for Godot (Samuel Beckett): "Mỗi người đều có một 'Godot' riêng mình. Mỗi ngày, tôi chờ đợi có thêm cuốn sách hay và còn đủ sức khỏe để viết lách. Tôi mong truyền thêm tình yêu tiếng Việt mãnh liệt đến với nhiều học trò, bởi theo tôi, một bộ phận bạn trẻ hiện nay kém tiếng Việt. Ngoài ra, tôi không đặt mục tiêu cố định nào cho tương lai của mình mà thả bản thân vào dòng trôi của tình yêu cuộc sống"."
Nguồn: Nhật Chiêu - một đời dạy học, đọc và viết (vnexpress)
---------
Bà cụ bán vé số:
"Bà Hai tâm sự, một lần bà nghe người ta bảo hiến xác khi chết đi sẽ có thể cứu sống được rất nhiều người. Vậy là bà liền nhờ phường làm giấy tờ giúp bà.
Nguồn: Cụ bà U.90 'bắn tiếng Anh' bán vé số cho anh Tây: Phía sau phận người (thanhnien)
---------
Lời thiên thu gọi - Trịnh Công Sơn. Trình bày: Thiên An - Triều Linh
https://www.youtube.com/watch?v=EE234FnI4Gc
---------
HIẾN CHƯƠNG CÁC NHÀ GIÁO
MỞ ĐẦU
Các nhà giáo thực hiện một chức trách quan trọng trong xã hội, vì giáo dục trẻ em là một vấn đề cốt tử, không chỉ cần cho sự phát triển cá nhân, mà còn cho sự tiến bộ của toàn xã hội.
Nghề dạy học đặt cho người thày những trách nhiệm, và những trách nhiệm này đòi hỏi những quyền tương ứng.
Các nhà giáo cần có quyền thực hiện một cách tự do toàn bộ những quyền dân sự và nghề nghiệp.
Thừa nhận việc phát triển tính cách cá nhân của trẻ như mục tiêu của giáo dục, nhà giáo phải tôn trọng quyền tự do tư tưởng của học sinh và khuyến khích học sinh phát triển tư duy độc lập.
Điều 1. Nhiệm vụ thiết yếu củanhà giáo là phải tôn trọng tính cáthể của trẻ, khám phá và phát triển khả năng, chăm lo quá trình giáo dục và đào tạo, luôn hướng tới việc hình thành ý thức đạo đức của con người và công dân tương lai, giáo dục trẻ trong tinh thần dân chủ, hòa bình và hữu nghị giữa con người với nhau.
Điều 2.Quyền của nhà giáo không phụ thuộc vào giới tính, chủng tộc, màu da, không phụ thuộc vào niềm tin và định kiến cá nhân, miễn là họ không áp đặt niềm tin và định kiến của mình cho trẻ.
Nhà giáo không bị phạt nếu việc giáo dục học sinh tuân thủ các quy định ở Điều 1.
Điều 3.Nhà giáo có quyền có các thỏa thuận về các biện pháp bảo vệ họ chống lại quyết định tùy tiện ảnh hưởng đến nhiệm kỳ công việc và nghề nghiệp của họ.
Cụ thể, các biện pháp bảo vệ cần được thực thi để chống lại các quyết định tùy tiện về tuyển dụng, tập sự, bổ nhiệm, đề bạt, hay các biện pháp kỷ luật bãi nhiệm.
Điều 4.Liên quan đến chương trình học và thực hành giáo dục, sự tự do sư phạm và tự do chuyên môn củanhà giáo phải được tôn trọng, các sáng kiến cần được khuyến khích, đặc biệt trong việc lựa chọn phương pháp giảng dạy và sách giáo khoa, cũng như trong việc nghiên cứu các vấn đề sư phạm và chuyên môn, thông qua đại diện nhà giáo.
Điều 5.Nhà giáo phải có quyền tự do tham gia tổ chức nghề nghiệp và cáctổ chức ấyphải có quyền đại diện cho nhà giáo trong mọi hoàn cảnh.
Điều 6. Tất cả các nhà giáo phải có quyền được đào tạo về mặt học thuật và chuyên môn theo các tiêu chuẩn cao nhất có thể, bao gồm cả những yêu cầu về giáo dục để có thể theo học ở bậc đại học.
Hoàn cảnh xã hội và tài chính không được trở thành một rào cản để ngăn cấm một sinh viên theo học để trở thành nhà giáo.
Điều 7.Nhà giáo cần được tạo cơ hội để tiếp tục học nâng cao trình độ chuyên môn.
Họ có quyền tham gia các khóa học bổ trợ với sự hỗ trợ tài chính ở mức cần thiết, kể cả việc tạo điều kiện đặc biệt để họ có thể tham quan, trao đổi ở nước ngoài, nhằm giúp họ có kiến thức thực tế về cuộc sống của chính họ ở trong nước cũng như ở nước ngoài.
Điều 8.Nhà giáo được hưởng tiền lương phù hợp với tầm quan trọng của chức năng xã hội và giáo dục mà họ đảm nhận, để có thể cống hiến hoàn toàn cho nghề nghiệp mà không phải lo lắng về tài chính.
Đối với những nhà giáo có trình độ và thâm niên công tác ngang nhau, cần áp dụng nguyên tắc trả lương công bằng, công việc như nhau thì lương cũng như nhau, không phân biệt.
Điều 9.Nhà giáo được nghỉ có lương trong toàn bộ thời gian nghỉ của trường học, được nghỉ ốm có lương và hưởng chế độ trợ cấp đầy đủ, kể cả trợ cấp cho góa phụ, trẻ em và người phụ thuộc.
Điều 10.Nhà giáo có quyền được làm việc trong điều kiện thích hợp, với các trang thiết bị cần thiết và quy mô các lớp học đủ nhỏ để giảng dạy hiệu quả.
Điều 11.Trang thiết bị trường học không nên phụ thuộc vào địa vị xã hội của học sinh cũng như thể loại trường mà chỉ phụ thuộc vào mục đích hay nhu cầu giáo dục.
Các trường cần được cung cấp nơi ăn ở phù hợp để tạo điều kiện cho đội ngũ nhân viên đủ trình độ, có thể đảm đương các dịch vụ chuyên biệt được giao như chăm sóc y tế và nha khoa, cung cấp bữa ăn tại trường và giáo dục thể chất.
Trường học cũng cần có các phòng thí nghiệm, phòng hội thảo và thư viện.
Điều 12.Nhà trường cần đóng góp vào sự phát triển nhân cách. Một nguyên tắc nhân đạo, phù hợp với lòng tự trọng của cả học sinh và nhà giáo, là phải loại trừ áp bức và bạo lực.
Điều 13.Trẻ em lệch lạc về hành vi cần được giảng dạy trong các lớp học đặc biệt nhằm điều chỉnh càng sớm càng tốt để các em có thể vào lớp học bình thường và có cuộc sống bình thường.
Trẻ khuyết tật về thể chất không thể tham gia vào hoạt động học đường bình thường cần được giáo dục trong các trường đặc biệt, bằng các phương pháp phù hợp với đặc điểm và tình trạng khuyết tật của các em.
Điều 14.Cần hỗ trợ các nghiên cứu giáo dục tại các cơ sở giáo dục, nơi mà các thực nghiệm về phương pháp có thể được tiến hành trong điều kiện thích hợp, nhằm có thể đẩy mạnh tiến bộ của lý thuyết và thực hành về giáo dục.
Cần có dịch vụ thông tin để công bố các kết quả nghiên cứu.
Điều 15.Thông qua đại diện do mình bầu, nhà giáo cần có cơ hội để xây dựng các chính sách nhằm cải thiện hoạt động quản lý các trường học và thực thi nghề nghiệp của mình.
Nguồn: chungta.com
Bản tiếng Anh
Bốn giai đoạn của cuộc sống:
- Giai đoạn 1. Giai đoạn bắt chước. Luôn luôn tìm kiếm sự chấp thuận và sự xác tín. Thiếu vắng tư duy độc lập và các giá trị của bản thân.
- Giai đoạn 2: Tự khám phá bản thân
- Giai đoạn 3: Toàn tâm toàn ý
- Giai đoạn 4: Di sản
Bài học cần rút ra là gì?
Đi qua mỗi giai đoạn cuộc đời giúp chúng ta có thể kiểm soát hạnh phúc và sự thịnh vượng của mình tốt hơn.
Trong Giai đoạn 1, một người sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào những hành động của người khác và cần được chấp thuận để có thể hạnh phúc. Đây là một chiến lược sống kinh khủng bởi vì con người thật khó đoán và bất định.
Trong Giai đoạn 2, người ta trở nên tự lực hơn, nhưng vẫn dựa vào thành công ngoại lai để có thể hạnh phúc – tiền, sự tán dương, chiến thắng, chiến công, vvv. Chúng có thể dễ kiểm soát hơn con người, nhưng về lâu dài chúng vẫn rất khó dự đoán.
Giai đoạn 3 sẽ phụ thuộc vào 1 số ít các mối quan hệ và những đam mê mà đã tự chứng tỏ chúng đáng để theo đuổi từ Giai đoạn 2. Những thứ này đã ổn định hơn qua thử thách. Và cuối cùng, Giai đoạn 4 đòi hỏi chúng ta chỉ bám giữ vào những gì mình đã hoàn thành được và nên ngừng kì vọng quá nhiều.
Trong mỗi giai đoạn, hạnh phúc trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào các giá trị nội tại, có thể kiểm soát và bớt dựa vào các yếu tố bên ngoài của thế giới không ngừng xoay chuyển này.
Nguồn: https://vnwriter.net/ky-nang/4-giai-doan-cua-cuoc-song.html
---------
[Dạy con]
Ý của thầy Văn Như Cương (thầy mất 9/10/2017)
"Dạy trò bài học làm người
"Hãy dạy con chúng ta có tấm lòng nhân ái, biết làm việc từ thiện dù rất nhỏ và có thái độ thân thiện đối với mọi người. Lòng thương người, tính đôn hậu là tính tốt cơ bản nhất mỗi con người nên có. Và hãy dạy con cái mình sống nhiều hơn với các thế giới có thật xung quanh, đang diễn ra hàng ngày… để chúng đừng đắm mình và chạy theo thế giới ảo trên các trang mạng", thầy Cương căn dặn."Một đứa trẻ kiêu căng, tự phụ hoặc một đứa trẻ tự ti, sợ hãi không phải là mục tiêu giáo dục của chúng ta", thầy nói và "xin phụ huynh đừng quá nuông chiều đến mức thỏa mãn mọi đòi hỏi của con. Hãy nhớ rằng con cái luôn luôn được voi đòi tiên". Thầy cũng "xin các vị đừng thương các con đến mức không để chúng đụng tay đụng chân làm bất kỳ việc gì, mà dành toàn bộ thời gian cho chúng dùi mài kinh sử. Vì như vậy sẽ có những đứa trẻ không bao giờ biết làm việc, kể cả việc đơn giản. Lớn lên chắc chắn chúng sẽ thành kẻ lười biếng".
Nguồn: PGS Văn Như Cương - thầy giáo Toán tài hoa (vnexpress)
---------
Bài hay cho sinh viên:
Chọn cái bấp bênh - http://www.tonybuoisangonline.com/chon-cai-bap-benh.html
---------
Cuộc sống vội vã, kiếp người bé nhỏ, ngoảnh đầu lại đã hết nửa đời người. Thời gian trôi nhanh như bóng câu lướt ngoài cửa sổ. Hôm qua còn vui vầy cùng bè bạn mà hôm nay đã đôi ngả lìa tan. Người cũ lâu không gặp, chuyện cũ lâu không bàn. Chớp mắt một cái, nhìn quanh mình chẳng còn lại mấy ai. Thời gian không đợi một ai, một sớm soi gương thấy tóc Ta điểm bạc, hồng trần có khác nào cõi mộng vậy thôi…
--------
"Theo họ, con đường giáo dục Việt Nam nhất định phải đi đó là: giáo dục phải hướng đến việc “khai minh”, “khai sáng” cho con người.
Nguồn: Đổi mới giáo dục - chuyện tử tế của những người "gieo mầm văn hóa" (GDVN)
---------
Tình lỡ cách xa - Tú xỉn - violin
https://www.youtube.com/watch?v=6WOqLCrpuDQ
---------
Ăn chay...
"Đề tài cũ quá phải không? Ai chẳng biết ăn chay có lợi cho sức khỏe, bảo vệ môi trường, tránh sát sanh, thực hiện ngũ giới… Nhưng nhà chùa đã ”đặt hàng” như vậy mà! Ở đây đông đảo bà con ăn chay nhưng một số bệnh tật lại nhiều, khi đi khám bác sĩ, bác sĩ bảo tại ăn chay, buộc phải “ăn mặn” trở lại mới hết bệnh! Bác sĩ nói đúng một phần. Thiệt ra không phải tại ăn chay chi đâu! Chẳng qua ăn không đúng cách. Ăn chay mà mặn quá, béo quá, nhiều đường bột quá, nhiều đạm quá… thì bệnh là phải rồi! Ăn chay mà không đúng cách thì béo phì, tim mạch, huyết áp, tiểu đường, stroke… là phải rồi. Ngược lại có người ăn chay lại thiếu chất, thiếu lượng, suy dinh dưỡng, gầy ốm tong teo, hạ đường huyết, chóng mặt, ngất xỉu… Một số các vị tu sĩ ngày nay bệnh nhiều, cũng do Phật tử…thương quá, quý trọng quá, bao nhiêu món ngon món bổ, sữa béo, sâm cao ly, nước yến… cung dưỡng cho thầy, hại thầy mà không hay!
Vì thế mà với đề tài này, mình đã đề cập ở 3 góc độ 1) Trước hết nói về sức khỏe là gì cái đã; 2) sau đó nói về tại sao ăn? ăn để làm gì? ăn cái gì? ăn bao nhiêu? ăn cách nào?... và sau cùng mới là 3) ăn chay. Chay là gì? Tại sao “chay”? Ăn chay ích lợi gì cho sức khỏe, cho tâm linh v.v…"
Nguồn: blog bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc (http://www.dohongngoc.com)
---------
Vĩnh biệt tác giả bài thơ Thời Hoa Đỏ - Thanh Tùng
"Đầu năm 2016, khi đã ngoài 80 tuổi, trả lời phỏng vấn PGS.TS Nguyễn Hoài Nam trên Tuổi Trẻ, nhà thơ Thanh Tùng có chia sẻ những chiêm nghiệm về tình yêu của ông:
Nguồn: Vĩnh biệt nhà thơ Thanh Tùng, tác giả Thời hoa đỏ (tuoitre.vn)
---------
Những cuộc đối thoại với rookie (loạt bài viết có ích cho sinh viên)
"Tôi không nhớ rõ bao nhiêu lần tôi nhận được thông điệp với dạng "Anh chỉ cho em cách hack với". Những thông điệp này đến từ e-mail, offline message của Yahoo, personal message trên diễn đàn..v..v.. Điều lý thú là những người gởi thông điệp này có khả năng và kinh nghiệm về CNTT ở mức độ khác nhau (sau khi tôi thử tìm hiểu và tiếp xúc để biết được điều này). Lý do tại sao những câu hỏi như trên được đặt ra quá nhiều? Họ hiểu thế nào là "hack"? Họ muốn "hack" để làm gì? Họ tìm tòi những gì về "hack"? Lúc bắt đầu tiếp cận với các câu hỏi thế này, tôi cố gắng giải thích ít nhiều (trong phạm vi cho phép) nhưng dần dà, tôi đâm ra... nản vì biết chắc những điều tôi trả lời không có kết quả hoặc tác dụng gì cả. Tuy vậy, những cuộc trao đổi này dẫn tôi đến chỗ thích thú khai phá, tìm tòi tâm lý của những người đặt câu hỏi. Tôi nhận ra vài điều lý thú:
- những lối mòn của cách suy tư (nếu có suy tư)
- khả năng tiếp cận và hình thành giải pháp cho vấn đề
- ý muốn đào sâu và rèn luyện
...
Sau bốn mươi phút chat với một cậu bé đang học đại học năm thứ hai, có kiến thức về tin học, tôi rút ra được vài điều như sau:
- hiểu chưa đúng về cái gọi là 'hack'
- vẫn còn thích phá phách một cách tinh quái
- chưa bình tĩnh để xét đoán một vấn đề
- thiếu kiên nhẫn để nhận ra những điểm cốt lõi mà chỉ thích thấy ngay kết quả
- bị cám dỗ bởi cái danh tiếng rất mơ hồ là 'cao thủ hacker'"
Nguồn: Những cuộc đối thoại với rookie - 1 (HVA)
---------
Tình ca du mục:
https://www.youtube.com/watch?v=vJjnZOnxQms
Single mom:
https://www.youtube.com/watch?v=x-2FDbb84qg
--------
["Các em nhỏ Lũng Luông đã cảm nhận được hạnh phúc! Mong có nhiều Lũng Luông nữa! Ngôi trường đẹp như những cánh diều tuổi thơ đang được nâng cánh trên những vùng cao hẻo lánh! Cảm ơn các bạn đã đem đến một điều thật ý nghĩa", tài khoản D.T.H. bày tỏ.
"Những con người nhỏ bé nhưng từng ngày nỗ lực để đem đến những điều lớn lao cho các trẻ em vùng cao. Cảm ơn Giáo sư Ngô Bảo Châu cùng những con người tâm huyết mang cái chữ đến với vùng cao", tài khoản H.N. chia sẻ.]
Nguồn: Cận cảnh ngôi trường độc đáo và đẹp như một đóa hoa dành cho trẻ em Lũng Luông (kenh14.vn)
--------
"Từ hồi mà tôi … làm quen với xã hội học tới bây giờ, ở trời Tây, xe to, nhà thiết kế đồ sộ hay áo quần hàng hiệu chưa bao giờ là biểu hiệu của giàu sang thanh nhã.
Hiện những nhà trí thức và các tầng lớp tinh hoa thường chọn ăn các thức organic, ở phù hợp với thiên nhiên, dạy con tử tế…đầu tư cho tương lai cho bền vững. Thậm chí một số người hiện dùng xe đạp để di chuyển hầu góp phần bảo vệ môi trường. Họ tiêu dùng kín đáo, dù họ là triệu hay tỉ phú."
Nguồn: Tiêu dùng phô trương và tiêu dùng kín đáo (huynhmai blog)
--------
"Để “cảm” được những vị lạ ấy cần có cái lưỡi “không bảo thủ”, hay nói cách khác, cần thoát khỏi sự định kiến “ẩm thực là thói quen” của tư duy quanh quẩn trong “lũy tre làng”. Có đi, đi nhiều, lang thang thậm chí bất định để bất chợt gặp những món lạ mà ồ lên bất chợt: Ngon ghê!"
Nguồn: Có một nỗi “ám ảnh” mang tên ẩm thực (nguoidothi)
---------
"Trên tạp chí Elite, tôi có đọc được một bài đúc kết, rút ra bảy ý nghĩa lớn nhất của việc đi du lịch:
1. Gia đình là... số 1 (phải có dịp đi du lịch đâu đó và xa nhà một khoảng thời gian, bạn mới nhận ra là mình nhớ nhà và gia đình như thế nào)!
2. Sự vô nghĩa của lòng đố kỵ (bạn sẽ nhận ra những sự ganh ghét đố kỵ trong cuộc sống là chuyện không đáng lưu tâm khi bạn có cơ hội ra bên ngoài khám phá thế giới).
3. Những tiện nghi của gia đình mình là những thứ tốt nhất thế giới (bạn có cơ hội tiếp xúc với nhiều nền văn minh mới, được ở những khách sạn sang trọng, khác biệt hẳn với những tiện nghi giản dị ở nhà.
Nguồn: Lịch sử được kể bằng dòng chữ trên bia mộ...(tuoitre)
---------
Về Lê Văn Lan:
"Nhiều quan chức các địa phương muốn tặng “Giáo sư sử học Lê Văn Lan” miếng đất làm thái ấp điền trang, hay ít ra “bác ở đây là vinh dự cho quê chúng em” lắm. Cụ Lan bảo, “tôi chỉ xin sáu mét vuông thôi. Để chôn tôi ấy mà. Mà đùa thôi, tôi chết hỏa táng, tro cốt đem ra cầu Long Biên thả xuống, khỏi cần vài mét vuông với lục bản mộc”.
"Ai rồi cũng bay qua vòm trời này đánh “xẹt” một cái, vấn đề là anh bay thế nào cho kiêu hãnh và để lại một cái gì đó thật sáng."
Nguồn: Vòm trời nào anh đã bay qua...(laodong)
---------
"Nhân ái, chất keo xã hội, «thương người như thể thương thân», …các nhà thần kinh học còn cho ta một giải thích khác : tế bào thần kinh gương (neurones miroirs)."
Sự thương cảm <> thấu cảm
Nguồn: Sự thương cảm - tế bào thần kinh gương (nguyenhuynhmai)
---------
"Lương tâm bắt nguồn từ tự do nội tại của mỗi người. Không có tự do sẽ không có lương tâm. Nhờ có tự do đó, thể hiện trước hết ở tự do nội tại mà mỗi người có được quyền lựa chọn làm và sống với những điều họ cho là thiện hảo, đúng, thật. Nếu không làm vậy, họ sẽ bị dằn vặt, bị lương tâm cắn rứt. Vì sao? Vì lương tâm chính là mình, lương tâm tạo ra mình với tư cách một con người. Không có nó, mình không còn là mình, mình cũng không còn là người, nên bị dằn vặt và cắn rứt.
...
Chép về từ trang của bác THD:
"
Con người tự do
Giáp Văn Dương
---------
"Tôi cho rằng giáo dục chính là giúp con người nhận ra mình là ai, biết yêu thương, biết trân trọng cuộc sống, trân trọng người khác và trân trọng chính bản thân mình. Và vì thế trẻ không cần phải học quá nhiều như thế."
Nguồn: Giáo dục con theo phương pháp nào? (tuoitre)
---------
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh
"Có một nhà văn trẻ nói rằng: “Bất hạnh là một tài sản”. Ông có thấy thế?
Nguồn: hà văn Nguyễn Xuân Khánh: “Vẫn phải sống thể tất cho nhau chứ!” (laodong)
---------
"Theo bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, một trong những cái lỗi cha mẹ thường gặp trong giáo dục con cái hiện nay là muốn con trở thành thiên tài. Ông cho rằng mong muốn này cũng được xem là một nhu cầu của phụ huynh. Tuy nhiên, nếu kỳ vọng quá sẽ hóa sai, bởi khi không đạt được mục đích, phụ huynh sẽ đau khổ và càng gây áp lực lên đứa trẻ.
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nói: “Các nhà khoa học đã nghiên cứu kỹ và rất có lý khi chỉ ra rằng trẻ 6 tuổi mới nên cho học lớp 1, cho học piano và học này nọ. Còn bây giờ mình lại muốn con mình 2 tuổi đã thành thiên tài. Những ca đó cũng có thể thành "thiên tài" trong vòng 10 - 12 năm đầu, nhưng rồi về sau thường có vấn đề tâm lý, tâm thần... nên phải hết sức thận trọng”."
Nguồn: Đừng ép trẻ thành thiên tài! (TN)
---------
[Để dạy con]
"Chúng ta hàng ngày đều có tiếp xúc, quan hệ với những người xung quanh mình, mà bàn ăn là nơi giao lưu quan trọng để phát triển mối quan hệ giữa người với người. Ở giai tầng xã hội càng cao thì càng nhiều phép tắc. Và việc xây dựng thói quen ăn uống chuẩn mực là tiền đề quan trọng đảm bảo sự thành công trong sự nghiệp sau này của con trẻ.
Nguồn: Giáo dục trên bàn ăn sẽ quyết định sự thành công của con trẻ mai sau (trithucvn)
---------
Nhà thơ Việt Phương:
"Sống nhân ái, chính trực và trí tuệ. Quý trọng con người, những con người bình thường nhưng có nhân cách sống hàng ngày bên ta, một người thợ sửa giầy, một bà bán hàng nước góc phố...Yêu thương sự sống ngay trong một cây xanh mọc quanh nhà …
Nguồn: Chú Việt Phương ơi (VNN)
---------
- Chủ nghĩa nhân văn phục hưng
- Chủ nghĩa nhân văn duy lý
- Chủ nghĩa duy lý kĩ thuật
...
"Con người đã thực sự bước vào giai đoạn khủng hoảng các giá trị tính người. Vai trò của cộng đồng xã hội trở nên vắng bóng trong các hoạt động cá nhân. Con người luôn nghĩ mình đang đối thoại với cộng đồng một cách dễ dàng thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, nhưng thực tiễn lại ngược với điều đó, chính các phương tiện truyền thông này đã “đặt” con người vào tình huống “dễ dàng” được đối thoại, nghĩa là tác nhân quy định sự đối thoại ngày nay không phải từ phía con người mà là từ phía kỹ thuật. Cộng đồng xã hội, giờ đây, được định nghĩa như là một thứ “cộng đồng ảo”; cuộc sống sinh động giờ đây cũng được thay bằng thuật ngữ “đời sống ảo”, “lối sống ảo” .v.v… tất cả thực tiễn trên đã đẩy các phán đoán, nhận thức, cũng như các tiêu chí sống của con người vào một thứ Chủ nghĩa cá nhân duy kỹ thuật.
Các giá trị nhân bản mà con người hiện thời đặt ra dường như chỉ là thước đo “ảo tưởng” do họ tự “lập trình” nên: Con người “có cảm giác” được tự do tuyệt đối, nhưng trên thực tiễn, con người thường xuyên phải lâm vào cảnh “trốn thoát tự do”([11]); con người có “cảm giác” được thực hiện các quyền dân chủ tuyệt đối, nhưng trên thực tiễn trong xã hội kỹ nghệ, con người luôn phải lâm vào cảnh “được ban phát các quyền dân chủ”([12]) .v.v… Không còn các tiêu chí để hướng đến một thứ nhân văn đích thực([13]), khi mà các chiều nhận thức của con người luôn trong tình huống “không chiều kích”. Những chiều kích mà con người đương thời vẽ ra chỉ là các dạng thức khác nhau của một thứ “chủ nghĩa hư vô”. Không có căn nguyên. Không có kết quả. Tự sản sinh rồi tự kết thúc. Không có lý tưởng. Không có đức tin. Không hướng đến sự hy vọng.v.v…Những nhận thức theo kiểu lý tính công nghệ ấy đã đưa thế giới tinh thần con người vào trạng thái “đóng băng” cảm xúc. Sự vô cảm trong một xã hội công nghệ, chính là minh chứng cho một thế giới “âm tính” về các giá trị."
Nguồn: Chủ nghĩa duy lý kĩ thuật và sự khủng hoảng các giá trị nhân văn (vanhocquenha.vn)
---------
da diết, dù chả hiểu gì :D
https://www.youtube.com/watch?v=HO9lruBBZ54
---------
"Để thành công trong thế giới học thuật và khoa học, tôi có thể chia sẻ về khía cạnh văn hoá khiêm cung. Phải biết mình đang ở đâu trong các bậc thang khoa bảng, nên biết trên nhường dưới, nên học hỏi càng nhiều càng tốt chứ đừng bao giờ tỏ ra mình là "expert". Ông bà chúng ta có câu rất hay là "Chưa đỗ ông nghè, chớ đe hàng tổng", nhưng tôi thì nghĩ trong bối cảnh học thuật ngày nay, dù đã đỗ ông nghè, cũng đừng nên đe doạ ai với cái danh.
Nguồn: Khiêm cung trong sự học (nguyenvantuan)
-----------
"Ông bố Osborn trong chương trình kia là một người rất giàu, ông ấy có thể bảo xe riêng trở về đến tận nhà, nhưng mà sau một chuyến đi dài người đầu tiên ông ấy muốn gặp chắc hẳn không phải là ông tài xế mà là vợ con. Tôi tin chắc chúng ta ai cũng như vậy thôi, nhưng không phải ai cũng sẵn sàng làm.
Nguồn: Tại sao phải đón nhau ở sân bay? (kimdunghn)
---------
"Ngày nào thầy giáo vụ nói riêng và ban hành chính nói chung chưa biết rõ ràng chủ đích của tổ chức mà bản thân mình là thành viên, để ứng xử đúng với những đối tác thì tổ chức còn ì ạch, không tiến bộ được."
Nguồn: Thầy giáo, thầy giáo vụ, xử sự ở đời và xã hội học (huynhmai)
---------
"Một thành phố thông minh (TPTM) có công nghệ cao, kỹ thuật tân kỳ, giàu có chưa chắc đã mang đến cho con người sự hài lòng, bởi nói cho cùng thì đích của cuộc sống là hạnh phúc, bầu không khí ấm áp và quan hệ xã hội thân thiện trong môi trường trong lành. Do vậy, TPTM chỉ là một trong nhiều sự chọn lựa chứ tuyệt nhiên không phải là một giai đoạn phát triển mang tính tất yếu. Không cần thiết phải đánh đổi một cộng đồng xã hội đô thị thân thiện yên bình lấy một thành phố điện tử “tốc độ” nhưng “vô cảm”."
Nguồn: Thành phố thông minh: Khuynh hướng tất yếu hay sự lựa chọn khôn ngoan? (nguoidothi)
---------
"Làm việc nơi nhuốm màu trầm buồn này, người ta dễ rơi vào trạng thái tiêu cực. Nhưng nơi đây, họ tìm thấy những mảng màu tươi sáng. Đó là những bệnh nhân cùng phòng an ủi, chăm sóc nhau, đó là những bệnh nhân lạc quan và sống chung với ung thư hàng chục năm trời, đó là tấm lòng một bệnh nhân trước khi qua đời đã nhờ gia đình mang toàn bộ tiền phúng viếng trong đám tang của chính mình đến giúp đỡ những bệnh nhân ung thư khác…“Để có đủ năng lượng gắn bó và làm việc ở nơi này, tôi chỉ có một cách, đó là cảm nhận cuộc sống bằng cả tấm lòng. Chỉ cần mở lòng là thấy cuộc sống tươi đẹp. Và tôi luôn an ủi bệnh nhân của mình bằng điều tương tự”"
Nguồn: Trải lòng của nữ điều dưỡng chăm sóc người “gần cõi chết”(laodong)
---------
em xin tuổi nào?
https://www.youtube.com/watch?v=RORt3TmnNTA
---------
Đàn ông...
Giai đoạn 1: Yếu ớt và bắt chước. (đến cuối vị thành niên, đầu tuổi trưởng thành)
Giai đoạn 2: Khám phá bản thân (25 -> 35 tuổi)
Giai đoạn 3: Cam kết (30 -> nghỉ hưu)
Giai đoạn 4: Di sản cho thế hệ sau này (còn lại)
"Người ta gọi những kiểu người ăn cơm một mình, chạy bộ một mình, ngồi yên một mình là người khác biệt. Mọi người đều đang hết sức bận rộn, sao lại có những người ngồi yên như thế. Nhưng hình như Lão Tử nói ở đâu đó rằng ngồi yên không làm gì cả thì luôn tốt hơn bận rộn um sùm mà cũng không làm gì cả.
Nguồn: tuoitre.vn
---------
Vẻ Đẹp Của Người Đứng Một Mình
Cuối năm, cuối đời...con người hay nhìn lại.
"Đi chợ Tết với Lê Văn Thảo
Nguồn: THD
---------
Đà Lạt...lãng đãng...phiêu du.
Có gì đó rất riêng của núi rừng.
Bước chân cha trên còn đường uốn lượn.
Cái lưng cong mẹ cúi trên triền đồi.
Em bé nhỏ đẩy xe lên dốc đứng.
Mùi cây mùi đất thấm trong tôi.
Thấy bạn nổi tiếng quá....nhận người quen. Bạn này ở cùng xóm núi (Nam Ban) he he.
Bài hát Câu chuyện bên đồi - Đinh Đức Thảo.
https://www.youtube.com/watch?v=Qog9sdAnZGQ
---------
"Một, rồi hai, rồi nhiều ngôi nhà nữa cất lên. Nhà nào cũng kéo rào vuông vắn, kín mít, cố nhoài ra hẻm. Hẻm bớt tiếng cười nói, vắng luôn tiếng lách chách đá cầu. Bà lão bán vé số chiều chiều vẫn vào ra. Bà già hơn, mặt sạm hơn vì nắng. Ghế đá không còn, bà cũng không buồn kể chuyện. Sinh viên không có tiền chơi vé số, ông thầy trúng độc đắc rồi cũng nghỉ mua. Bà lão đi qua hẻm chỉ như một thói quen.
Những âm thanh đó giờ đã là xa xỉ."
Nguồn: Hẻm sống (nguoidothi)
---------
Seour Mậu - trại cùi Di Linh
"...Lần này thì những người cùi thân quen bảo tôi seour Mậu đã “đi” rồi. Bà đã đến và đi đúng như thế. Chỉ có tinh thần bà hóa rêu đây đó. Nghe nói bà đi vào đâu đó tận vùng Dam Rông, một huyện nghèo khó sâu xa hơn mới thành lập của tỉnh Lâm Đồng, tiếp tục công việc thương yêu tha nhân với cộng đồng bé mọn sơn cước M’Nông, Cill, và các sắc dân tha hương Mông, Tày, Thái, Nùng mới từ Tây Bắc vào. Bà đã không về an dưỡng tuổi già ở khu an dưỡng nơi ngoại ô Lộc Thanh ở Bảo Lộc như những linh mục, nữ tu trong giáo phận. Đúng như lúc xuân thì Mậu đến cao nguyên Di Linh trong lời tâm nguyện “đến thế nào thì ra đi như thế!”.
Nước Chúa không biết có thật không, nhưng seour Mậu thì có thật."
Nguồn: Gùi phúc âm lên đồi bác ái (nguoidothi.vn)
---------
Một nếp sống an lạc - BS Đỗ Hồng Ngọc
https://www.youtube.com/watch?v=836Lg4Cg6vE
---------
Nghị lực, tấm gương của người mẹ, người tử tế - bà Xuân Lan
"Mạ và sáu con nhao ra làm mọi việc của người bần cùng để tồn tại trong ghẻ lạnh người đời thời kỳ đau đớn ấy. Bà như một diễn viên trên cái sân khấu không có màn nhung, khán giả là sáu đứa con nhìn vào từng hành vi, cử động, vẻ mặt dáng hình của mẹ để bám víu, động viên (đôi khi tán thưởng nữa). Bà tin và yêu chồng hơn cả những ngày trăng mật xưa và tin các con có bộ gène tốt, có nền tảng giáo dục cao và tin ở hoàn cảnh tôi luyện con người. Thảy đều giống cha, khả năng xã hội học rất đậm nhưng để tránh số phận phiền phức, bà định vị chúng đi khoa học tự nhiên. Nhưng rồi thiên hướng đã tụ chúng lại: dịch giả, kiến trúc sư, nhà sử học và nghề giáo... Có câu “nhìn con biết mẹ”, quả nhiên, thời gian đã không phụ công người lao khổ. Dù không ai được phép xuất ngoại du học vì “nhân thân xấu” nhưng trong mắt tôi, những người con của ông bà Kiến Giang thực sự là những con người tử tế đúng như ông bà mong ước."
Nguồn: Đế của tượng - bài của tác giả Dạ Ngân (nguoidothi.vn)
---------
Sống với "mẹ thiên nhiên" hay chinh phục "mẹ thiên nhiên", con người hãy cẩn thận.
"Từ sau 1975, ta đến, và kiêu ngạo một cách kỳ quặc, ta bảo họ ngu dốt, lạc hậu. Ta khinh bỉ cuộc sống ấy, cách sống ấy. Ta yêu cầu họ làm nông nghiệp hiện đại theo ta. Gọi là “cầm tay chỉ việc’’ như đối vởi trẻ con, ta bày họ cày trâu, rồi cày máy, ta bày họ đi rẫy bằng xe máy cày coi là rất tiến bộ, dạy họ khoan sâu xuống đất hằng trăm mét để hút nước ngầm coi là rất văn minh. Ta dạy họ diệt cỏ, rải phân hóa học, phun thuốc diệt hết côn trùng...
Tôi thật sự cảm phục tài năng và sự tận tụy của các chuyên gia. Nhưng rồi, tôi đã nghĩ lại và phải xin lỗi mà nói với các giáo sư đấy là một sự thông thái và tài tình... hơi buồn cười! Tất cả các cơ chế phức tạp được các giáo sư công phu tạo nên đó... hóa ra là những thứ, những chức năng rừng vốn vẫn làm trước đây, chắc chắn là tinh vi, toàn diện và hiệu quả hơn trăm ngàn lần, qua hàng vạn hay hàng triệu năm sinh sôi và tồn tại của rừng. Bây giờ ta phá sạch hết rừng rồi, ta đi bắt chước rừng làm được đôi ba thứ chắc chắn là vụng về, nghèo nàn và què quặt hơn nhiều..., rồi ta vui vẻ khen nhau tài giỏi và thông minh!"
Nguồn: Cuộc cách mạng một cọng rơm - cuốn sách lạ và quý - Fukuoka (bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc) (nguoidothi.vn)
---------
Tình người, lòng mẹ, nghị lực sống,
"Thấy một người mẹ đơn thân ôm trên tay đứa con bé xíu và anh của Tí Hon là cháu Nguyễn Tuấn Chính lúc ấy cũng mới lên năm đến Làng Hòa Bình, cô Hai rất xúc động. Cũng như với anh em Việt Đức, Làng Hòa Bình Bệnh viện Từ Dũ mở rộng vòng tay đón mẹ con Tí Hon."
Nguồn: Tí hon Nguyễn Duy Phương bay về trời (tuoitre.vn)
---------
"Giáo sư Maslow đã miêu tả rõ ràng hơn bức tranh về “những người trưởng thành” sau khi nghiên cứu rất nhiều tính cách đặc biệt của các vĩ nhân nói chung trong lịch sử. Những người này có 16 điểm đặc biệt sau đây:
1. Khả năng phán đoán của họ tốt hơn người bình thường, quan sát sự việc rất thấu đáo, chỉ dựa vào một số việc đang xảy ra sẽ có thể dự đoán chính xác được diễn biến ra sao trong tương lai."
Đọc thêm tại đây: http://trithucvn.net/doi-song/tren-the-gioi-chi-co-1-nguoi-dat-den-canh-gioi-tri-tue.html?utm_content=buffer1c889&utm_medium=social&utm_source=facebook.com&utm_campaign=buffer
---------
Có những nỗi niềm không sao biết được - Nguyễn Hòa
"Từ khi đôi mắt không còn nhìn được, hằng ngày nếu không trò chuyện với chị thì anh làm bạn với chiếc radio nhỏ để đầu giường, anh nghe bằng bốn tiếng Việt - Pháp - Anh - Hoa. Con cái lấy vợ lấy chồng ở riêng, căn hộ rộng rãi chỉ có anh chị. Vì thế chị cũng buồn. Chiếc TV, cây đàn Piano đều phủ vải. Ngày trước chị là nghệ sĩ Piano nổi tiếng ở Hà Nội, giờ chị không chơi đàn nữa. Hằng ngày ngoài việc chợ búa, cơm nước, dọn dẹp, trò chuyện với anh thì niềm vui của chị là tủ CD, VCD và giá sách tiếng Việt xếp đầy.
Không nhìn được nhưng anh chỉ nhờ chị giúp các việc anh không thể tự làm còn anh thì làm lấy, từ đánh răng rửa mặt, thay quần áo tới tắm táp, ăn uống. Nhìn anh đến bữa ăn là lại lần tường đến đúng chỗ ngồi của mình là tôi biết anh chủ động với bản thân ra sao. Năm sau đi công tác, tôi lại thăm anh chị. Lần nào cũng vậy, dù trò chuyện qua điện thoại hoặc anh em ngồi tâm sự với nhau là ký ức của anh lại ùa về. Mà cũng lạ, tuổi ngoài 90 mà giọng nói của anh tôi vẫn sang sảng, trí óc vẫn rất minh mẫn, nhiều chuyện anh nhớ đến chi tiết. Có sự kiện anh nhắc vài ba lần, tôi nghĩ đó vừa là chuyện của người già, vừa là nỗi niềm từ lâu anh không thể nói với ai. Chắp nối những điều anh tâm sự, tôi hiểu cuộc đời anh đã qua nhiều thăng trầm."
Nguồn: http://daidoanket.vn/chuyen-de/co-nhung-noi-niem-khong-sao-biet-duoc/126071
---------
Vinton Gray Cerf - cha đẻ của Internet
"Có câu nói “Nếu bạn muốn có cái bạn chưa từng có thì bạn phải làm những điều bạn chưa từng làm”. Bên cạnh đó, cảm giác chinh phục được cái mới sẽ rất thú vị, hãy tin tôi.
Nguồn: http://nhipsongso.tuoitre.vn/tin/20161005/cha-de-cua-internet-toi-chua-tung-nghi-cuoc-doi-bat-cong/1182747.html
---------
Bà Trịnh Thị Ngọ
Yêu nghề, yêu nước.
"Tiếp xúc với bà, mọi người dễ dàng nhận thấy sự kiên định, mạnh mẽ ẩn trong sự dịu dàng, nhẹ nhàng rất Việt Nam, điều đó đã thể hiện trong chính giọng đọc của bà. Đi qua thời thanh xuân với vẻ đẹp rạng ngời và điều kiện gia đình khá giả, nhiều cơ hội việc làm đỡ vất vả hơn, nhưng đến tận bây giờ, bà Ngọ vẫn khẳng định, chọn vào làm việc ở Đài Tiếng nói Việt Nam là một quyết định đúng đắn nhất trong cuộc đời.
Nguồn: http://vov.vn/xa-hoi/dau-an-vov/vinh-biet-ba-trinh-thi-ngo-nu-phat-thanh-vien-tieng-anh-huyen-thoai-555925.vov
---------
GS Tạ Quang Bửu
Với những cống hiến lớn lao đối với đất nước và nhân dân, Giáo sư Tạ Quang Bửu đã được Đảng, Nhà nước, quân đội tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và các huân, huy chương cao quý khác. Năm 1996, Giáo sư Tạ Quang Bửu được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 về khoa học và công nghệ với “Tập hợp các công trình giới thiệu khoa học kỹ thuật hiện đại sau năm 1945, chỉ đạo các nhiệm vụ kỹ thuật quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước”. Tên của ông được đặt cho gần 30 con phố, trường học, thư viện, công trình ở các tỉnh, thành phố trên cả nước. Từ năm 2014, có một giải thưởng mang tên Giáo sư Tạ Quang Bửu. Đây là giải thưởng hằng năm của Bộ Khoa học và Công nghệ nhằm tôn vinh các nhà khoa học có thành tựu nổi bật trong nghiên cứu khoa học cơ bản.
|
Ngô Thảo - bình dị như chùm lá quế khô
Ca sĩ Khánh Ly:
Cafe cùng Tony (dành cho bạn nào không có tiền mua sách)
https://www.youtube.com/watch?v=rnoMaBXTsPI
---------
Quản trị cuộc đời
https://www.youtube.com/watch?v=Ra8obxSNlDE
---------
Những người như thế này ban đầu có thể gây cuốn hút với sự tự tin của họ, thế nhưng điều này nhanh chóng trở nên nhàm chán.
Trước những kết quả nghiên cứu nói trên, có lẽ bạn nên tỏ ra kiên nhẫn với những narcissist quanh mình.
Họ có lẽ là chỉ đang cố gắng bù đắp cho sự thiếu tự tin của bản thân và nhiều khả năng là về dài hạn, họ sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là khi đối mặt với các thách thức trong cuộc sống."
Nguồn: Nên thương hại kẻ thích gây sự chú ý(VHNA)
-----------
"Một đứa trẻ cứ vô tư làm điều xấu, điều ác, hay chỉ đơn giản là quậy phá, làm phiền người khác quá mức vì luôn được người lớn nuông chiều, cha mẹ không dạy bảo vì quan niệm: còn nhỏ biết gì; lỡ thôi mà; trăng đến rằm trăng tròn, lớn lên tự khắc nó sẽ không làm thế... Trong gia đình là không gian riêng tư nhưng bước ra đường, ở nơi công cộng thì đó là không gian xã hội, cần phải ứng xử theo chuẩn mực chung hay ít nhất không gây sự phiền phức khó chịu cho người xung quanh. Điều đó phải được giáo dục từ nhỏ ngay trong gia đình."
Nguồn: Nhân chi sơ tính bản gì? (thesaigontimes)
---------
"Dựa vào hình tượng Sisyphus, một vị thần bị kết án suốt đời đẩy một tảng đá lên đỉnh núi, rồi lại thấy nó lăn xuống, rồi lại phải đi xuống chân núi, đẩy tảng đá lên từ đầu, cứ như thế ngày nọ sang ngày kia. Thời gian trôi đi trong những hành động lặp đi lặp lại, kéo dài tưởng như bất tận ấy. Camus thấy rằng, sự hiện hữu của chúng ta trong đời sống này cũng vô nghĩa và phi lý như vậy. Ông đặt ra vấn đề về sự tự sát. Sự tự sát có phải là cách giải quyết. Sự tự sát có đưa đến hạnh phúc. Ông cho rằng tự sát có ý nghĩa nhưng nó là một ý nghĩa cực đoan, và tự sát là một hành động khước từ gần như nhút nhát, trốn chạy."
"Và Camus nói “Dù phải chịu bao nhiêu thử thách, tuổi tác dãi dầu và sự cao quý của tâm hồn ta làm cho ta kết luận rằng mọi sự đều tốt đẹp”. Đó chính là cái cốt lõi của những lý lẽ mà Camus đã đặt ra trong cuốn tiểu luận Thần thoại Sisyphus. Ta càng thấu rõ cuộc đời, càng nhìn nhận được sự vô nghĩa của cuộc đời, ta càng phải sống, với gánh nặng của mình, chấp nhận nó như một lẽ tự nhiên, và sống và “hạnh phúc”, như cách Sisyphus đã trải qua."
Nguồn: Tại sao chúng ta phải sống trong một thế giới vô nghĩa (Zing.vn)
---------
Đi đến tận cùng của cái tôi là đang hòa mình vào với thế giới. Bởi thế giới chính là con người.
"Mỗi tác phẩm văn chương là một sự sáng tạo của cá nhân, nên trong nó luôn ẩn chứa cái “tôi” của người cầm bút. Nhưng đã có những thời điểm, vì nhiều lý do khác nhau mà phần cá nhân của người sáng tác bị lu mờ dần trong văn học.
Đào tạo con người - trung tâm (Phước Lộc) - nghề nghiệp
"Rất mau chóng, Hân không còn giờ để lo lắng, bởi cô phải lao vào học bao nhiêu điều lạ lẫm: quản lý chi tiêu, quản lý cảm xúc, giá trị của lòng trung thực, thiết đặt và lên kế hoạch thực hiện ước mơ, lượng giá điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, văn hóa các nước, rồi thì cắm hoa, sử dụng các máy móc gia dụng hiện đại, cách nấu món ăn 3 miền, nấu món Tây, món Nhật, học tiếng Anh..."
"Học xong lớp 12, không có tiền học đại học, xã hội phức tạp quá, mà em còn non nớt - đó là lý do em chọn học ngành quản gia. Cũng có lúc em mặc cảm khi nghe người khác bảo em đang học "nghề osin" nhưng ở Phước Lộc, em được dạy phẩm giá của con người không được quyết định bởi công việc họ làm. Và em tin vào điều đó" - Học viên Hồ Thị Vân.
Còn ngôn ngữ? Cô gái miền quê ở Hà Nam chỉ học hết lớp 10 cho biết ở Phước Lộc, tiếng Anh là môn luôn được chú trọng. "Suốt 1 năm em học nghề chỉ có một cô giáo người Việt dạy ngữ pháp, còn lại em liên tục được học với nhiều người nước ngoài khác nhau, làm quen với đủ giọng khác nhau nên không gặp khó khăn nhiều trong vấn đề giao tiếp", Lệ tự tin.
...
---------
Chuỗi chương trình có ích cho cuộc sống vợ chồng.
Lâu lâu vợ chồng cùng coi, cùng bàn luận.
Vợ chồng son (nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=xElavMFi2Yg)
---------
Bữa nay đã biết tự ngồi dậy, tự đi không cần sự trợ giúp của mẹ nó, của hai bạn Net và Chip, của gậy tập đi. (em: 34 tuổi) (3/6/2016)
Mùa xuân đầu tiên - Văn Cao
Nguồn: hopamviet.vn1. Rồi dặt [E7] dìu mùa [Am] xuân theo én về
Mùa bình [E7] thường mùa [Am] vui nay đã về
Mùa xuân mơ ước [C] ấy đang đến đầu [Am] tiên
Với khói [Dm] bay trên [G] sông gà đang gáy trưa bên [C] sông
Một trưa [F] nắng vui cho [E] bao tâm [E7] hồn
2. Rồi dặt [E7] dìu mùa [Am] xuân theo én về
Người mẹ [E7] nhìn đàn [Am] con nay đã về
Mùa xuân mơ ước [C] ấy đang đến đầu [Am] tiên
Nước mắt [Dm] trên vai [G] anh giọt sưởi ấm đôi vai [C] anh
Niềm vui [F] phút giây như [E7] đang long [Am] lanh
ĐK: [C] Ôi giờ [E] phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu [F] tiên
[C] Ôi giờ phút trong [E] tay anh đầu tiên một cuộc đời êm [E7] ấm
Từ [Am] đây người [C] biết quê [Am] người
Từ [Dm] đây người [G7] biết thương [Dm] người
Từ [F] đây người [C] biết yêu [E7] người
3. Giờ dặt [E7] dìu mùa [Am] xuân theo én về
Mùa bình [E7] thường, mùa [Am] vui nay đã về
Mùa xuân mơ ước [C] ấy xưa có về [Am] đâu
Với khói [Dm] bay trên [G] sông gà đang gáy trưa bên [Am] sông
Một trưa [F] nắng thôi hôm [E7] nay mênh [Am] mông
---------
Bài phỏng vấn Lê Ngọc Sơn.
Nguồn: Làm bạn với "sự một mình"/THD
Anh Lê Ngọc Sơn hiện là thành viên Nhóm Nghiên cứu Quốc tế về Truyền thông Khủng hoảng của Đại học Công nghệ Ilmenau (CHLB Đức).
Trước khi dành học bổng toàn phần theo đuổi nghiên cứu bậc tiến sĩ ngành Khoa học Truyền thông và Quản trị Khủng hoảng tại tại Khoa Khoa học Kinh tế và Truyền thông, của Đại học top đầu này của Đức, anh tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Quản trị công, khoa Chính phủ, Đại học Uppsala (Thụy Điển), và Cử nhân báo chí, khoa Báo chí Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội). Anh có kinh nghiệm nhiều năm làm báo và đạt nhiều giải thưởng.
Anh cũng là tác giả và dịch giả nhiều cuốn sách bán chạy tại Việt Nam, là người sáng lập kiêm Chủ tịch Trường Đào tạo Truyền thông Ứng dụng IAMS, một tổ chức giáo dục phi lợi nhuận đầu tiên trong lĩnh vực truyền thông tại Việt Nam.
|
Bài phỏng vấn Phan Cẩm Thượng.
Nguồn: Nếu không viết sách, tôi đã có thể có ba bốn cái nhà/ĐĐK
PV: Ông có thể kể về tuổi thơ của mình?
- Phan Cẩm Thượng: Câu chuyện này dài lắm, tôi không biết nên kể những chuyện gì, bắt đầu từ đâu. Sau năm 1954, gia đình tôi từ khu giải phóng ra Hà Nội, chuyển nhà đến ba lần, nhưng lần nào cũng đi thuê nhà xác của một bệnh viện cũ. Do nhà tôi rất đông người, gồm ông ngoại, hai chị em bà ngoại, bố mẹ và chín anh em, thuê những nơi đó rẻ tiền và không ai muốn ở.
Những con ma (thật hay giả?) ám ảnh tôi đến tận bây giờ. Tôi sinh ra ngày 1/1/1957 ở nhà thương 18 phố Quán Sứ (còn gọi là nhà Hộ sinh). Nhà tôi cũng ở luôn trong khu nhà thương này. Từ năm 1959 đến 1963, bố tôi hay đưa tôi đi chơi rất xa bằng xe đạp, đến những nơi trong kháng chiến chống Pháp ông từng đi qua và đến nhiều di tích văn hóa cổ. Đây cũng là thời gian đẹp đẽ nhất của gia đình.
Ông có thể kể rõ hơn về ám ảnh những hồn ma? Và sinh hoạt của ông cùng gia đình khi sống trong nhà xác của bệnh viện cũ?
- Tôi không hiểu sao những nhà xác của bệnh viện tư nhân thời xưa lại thường ở mặt đường. Chắc vì đưa thi hài ra cho tiện. Khi gia đình tôi đi thuê nhà, thường không ai nói đó là nơi như thế nào, chỉ thấy là giá rẻ, rất rộng và mặt đường, nhưng khi biết đó là nhà xác vẫn cứ phải ở thôi, với một gia đình mười mấy người không có cách lựa chọn khác. Những bà già sống xung quanh đó thường kể cho tôi nghe về chuyện ma, đặc biệt là chuyện thần giữ của.
Tôi biết nhiều chuyện ma, đến mức suốt thời thơ ấu nhiều khi không rõ mình đang sống thực hay nằm mơ. Mọi người trong nhà tôi lại rất đề cao chủ nghĩa duy vật, chẳng ai sợ ma quỷ, chẳng ai quan tâm đến cúng giỗ, trừ bà ngoại tôi. Bà năm nào cũng đi chùa Hương một lần cho đến tận năm mất.
Kỷ niệm ấu thơ nào lắng đọng trong ông để không thể nào quên?
- Gần nhà tôi có hai mẹ con bà hàng xóm. Bà này rất giầu, chân đeo cả một cái Kiềng vàng. Một lần tắm bà bỏ quên cái Kiềng, nên tiếc của ốm mà chết. Trước khi chết, bà gọi bố mẹ tôi và trao lại cô con gái độc nhất. Bà bảo: Nó không thiếu của để sống, nhưng không ai trông nom. Vậy nhờ ông bà giúp, bên ấy đã có chín cháu, thêm một đứa cũng không đông là bao nhiêu.
Chị ấy qua lại nhà tôi như anh chị em trong nhà rất thân ái. Khi túng tiền, chị thường đèo tôi bằng xe đạp phơ dô đến một nơi nào đó, có một chiếc rương gỗ to, trong chất đầy đồ gốm sứ cổ, lấy ra một cái bán đi tiêu.
Sau này chị lấy chồng, tôi cũng thành thiếu niên, lại chơi nhà chị, tôi thấy một đôi tượng mèo sứ rất đẹp, bèn hỏi xin. Chị bảo tất cả những rương đồ cổ mà em trông thấy, bây giờ chỉ còn hai con mèo này. Tôi không xin chị nữa. Vài năm sau thì chị ấy chết vì ung thư.
Ông đã trưởng thành trong hoàn cảnh vật chất/ và tình cảm gia đình như thế nào?
- Một gia đình đông đúc mà chỉ có lương của bố, nên nhà tôi rất nghèo. Nồi cơm bưng ra nhoáng một cái đã hết sạch. Mỗi năm nhà nước trợ cấp cho gia đình tôi đôi chiếu, và những người dưới 18 tuổi 5 đồng/ tháng. Nói thực là cho đến khi vào bộ đội tôi mới sờ vào miếng thịt, cho đến nay về căn bản tôi không ăn được thịt. Tuy nhiên mọi người trong nhà rất hay, ai nấy đều có ngoại ngữ, đều biết vẽ và chơi đàn. Bố tôi dậy mọi người văn hóa nói chung và ngoại ngữ, mẹ tôi dậy đàn ghi ta cổ điển, nấu ăn và đan len.
Vào lúc đó tất cả anh chị em nhà tôi đỗ vào đại học là trường hợp rất đặc biệt. Tôi còn có ba người chị nuôi thường xuyên lại nhà, và họ hoàn toàn tự túc về kinh tế. Như vậy với bẩy cô chị, bốn người anh và những bạn bè của họ, nhà tôi luôn đông như ngày hội. Các buổi tối thứ bẩy, chủ nhật đều có vài ba cây ghi ta hòa nhạc. Ngày sinh nhật của tôi là ngày tụ họp của toàn gia đình.
Tôi là người kém nhất nhà, có thể bạn không tin điều này, vì cho đến nay tôi thành đạt hơn mọi người trong gia đình mình. Tôi chỉ sớm nhận thấy cái học và cái làm của các anh chị tôi chẳng đi đến đâu, nhất là không qua nổi sự nghèo đói. Hai người anh tài hoa nhất trong nhà chết trẻ. Người do ốm đau bệnh tật, mà không có thuốc, người thì thất nghiệp dài đâm ra nghiện rượu. Từ năm 1968, gia đình lớn của tôi chính thức tan rã bởi nhiều lý do. Từ đó mọi người ít gặp nhau, và tôi cũng sớm tự lập. Tôi tự nuôi được mình từ năm 11 tuổi.
Đến tuổi nào thì ông nhận thấy “cái học và cái làm của anh chị không đi đến đâu”? Ông làm thế nào để không đi vào con đường nghèo đói, bế tắc của anh chị ông?
- Rất sớm, chừng tám tuổi bởi vì tôi luôn bị đói. Thực ra cái đói là chung của nhiều nhà trong thời chiến tranh. Trước tiên tôi thấy là việc đi học như thế này không thiết thực lắm và không làm được nghề gì cả. Từ đó tôi học hết sức cầm chừng, miễn qua được lớp, rồi tự học một số thứ khác, như học vẽ, học chữ Hán và một số nghề cụ thể. Tôi thấy cả kho tàng Hán Nôm lúc đó chẳng ai coi trọng. Chị tôi cũng giỏi Trung văn bảo tôi rằng sau này sẽ cần đến người đọc đến, nên nếu tôi đi vào đó sẽ có việc làm mà không phải cạnh tranh với ai. (Ngày trước việc làm là vấn đề lớn vì liên quan đến sổ gạo).
Khi có thể làm được một số nghề, tôi lại nghĩ, nên chơi là chính, chứ vất vả thì không ra người. Từ đó tôi làm cũng hăng mà chơi cũng khiếp. Tôi cứ quan sát xung quanh, thấy người ta bỏ đi cái gì thì tôi làm cái đó. Ví dụ sau này không ai chịu nghiên cứu nghệ thuật cổ thì tôi đi vào, không ai vẽ theo lối cổ thì tôi vẽ, ai cũng thích nhao đi kiếm tiền, thì tôi ngồi chơi.
Người xưa có nói: Bổ bất túc, Tổn hữu dư - nghĩa là: Thêm vào thì không đầy, Tổn thất lại thừa ra. Tôi thực hiện đúng như vậy, cứ chịu thiệt, mà rồi cái gì cũng có. Có lẽ nói vậy không ai tin.
Khi còn là học sinh, việc học trong trường của ông ra sao?
- Khi ở bộ đội, tôi phục vụ ở ban tài vụ trong binh chủng không quân. Nơi đây nhiều người có trình độ cao. Chúng tôi xây dựng một thư viện lớn và được chỉ huy ủng hộ. Tôi tự học xong vài chương trình đại học ( như văn, sử, triết học và toán ) từ thư viện quân đội. Nên thi đại học rất dễ dàng, và khi học cũng vậy.
Thi đại học dễ dàng và việc học không khó khăn khi ông học trong trường lớp cầm chừng và chăm chú tự học những thứ ông cho là cần thiết, những thời điểm nào tạo ra các bước ngoặt trong cuộc đời ông?
- Thực ra những bước ngoặt đều là ngẫu nhiên và không phải lúc nào cũng thú vị. Năm 1965, tôi sơ tán ở Phú Thọ, rừng núi và đời sống hoang sơ nơi đây đã di dưỡng tâm hồn tôi. Năm 1966, 1967, tôi sống ở Hà Tây, những di tích văn hóa đình chùa đã đưa tôi đến nghề nghiên cứu mỹ thuật cổ sau này. Năm 1975, tôi đi bộ đội, đó là một bước ngoặt lớn. Năm 1992, tôi xin ra khỏi biên chế cũng là bước ngoặt. Nếu tính nhiều sự kiện cá nhân, gia đình, xã hội khác, thì ai cũng có nhiều bước ngoặt.
Bây giờ nhìn lại thấy các bước ngoặt chỉ là trò đùa của tạo hóa, hình như cuộc đời của con người thực chất là một đường thẳng, giống như một sợi dây, có rẽ chỗ này chỗ nọ, có nút có rối, nhưng căng ra vẫn thẳng. Hay đó là số phận.
Hoàn cảnh nào đưa tới việc ông trở thành giảng viên Trường Đại học Mỹ thuật Yết Kiêu?
- Tôi tốt nghiệp năm 1984 và được giữ lại trường. Thực ra ba năm sau mới chính thức lên bục giảng, còn những năm đầu tôi làm ở phòng nghiên cứu khoa học và đi dậy giờ cho các trường trung học văn hóa nghệ thuật các tỉnh. Tôi được thay vào vị trí của thầy mình là ông Nguyễn Quân, lúc đó đã chuyển lên hội Mỹ thuật. Tôi dậy môn Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, và ít nhiều về Mỹ thuật phương Đông.
Ông giảng dạy bao nhiêu năm? Ông có thể kế về học trò của mình? Ông cảm thấy thế nào khi bản thân là giáo viên? Ông có yêu nghề không?
- Mặc dù thôi biên chế năm 1992, nhưng tôi vẫn nhận dậy giờ cho nhà trường đến năm 2005, và cũng dậy giờ cho nhiều trường nghệ thuật khác. Đến nay căn bản thôi dậy học. Tôi nghĩ không cần thiết phải kể về học trò. Vì nói chung các nghệ sỹ sau khi ra trường không thích nhắc đến ai là thầy mình. Tôi tôn trọng điều này. Trong nghệ thuật phủ định là việc tích cực. Khi là giáo viên, tôi thường không soạn bài, không mang theo giáo trình, sách vở, muốn tự mình lý giải vấn đề lúc nào cũng khác nhau. Tuy nhiên tôi đã thuộc Lịch sử nghệ thuật, thế giới và Việt Nam, có thể phân tích các trường phái, nghệ sỹ… theo nhiều chiều. Tất nhiên là yêu nghề.
Giảng dạy không mang giáo trình, chẳng soạn giáo án như thế, liệu ông có gặp phải sự phản đối của đồng nghiệp hay từ chính học trò của mình không?
- Trường Nghệ thuật vốn mang tính truyền nghề nên giáo trình giáo án, cho đến nay chẳng có gì quy củ. Phần lớn lên lớp bằng kinh nghiệm, không riêng gì tôi. Các môn lý thuyết cũng có thể soạn ra được, nhưng năm nào cũng thế thì lặp đi lặp lại. Nên tôi có soạn nhưng dậy tự do để tìm cái mới ngay trên lớp. Học sinh nghệ thuật họ cũng biết nên nghe cái gì.
Vì sao ông nghỉ dạy? Hoàn cảnh nào đưa ông tới quyết định đó?
- Ở đây cần phân biệt việc xin thôi biên chế và thôi dậy học là khác nhau. Tôi rời biên chế sớm vì không muốn biến thành một người công chức nhàm chán. Nhưng hơn 10 năm sau mới thôi dậy học, vì lúc đó tôi thấy học sinh và người thầy rất khác, rất nhiều tiêu cực, ở tất cả các trường tôi từng biết. Việc học hành không được đặt lên hàng đầu, và người ta chỉ cần bằng cấp thôi. Nền giáo dục hoàn toàn suy đồi. Lòng tự trọng của những người thầy và sinh viên bị đánh tan nát bởi sự biếu xén, đút lót, đổi tình hay tiền lấy điểm. Lúc đó tôi thường nói với sinh viên nào còn muốn học là hãy lựa chọn mình trong nền giáo dục, hãy tự học, không chờ đợi ai dậy. Và học để biết cái tất yếu của cuộc đời chứ không để hơn ai hay kiếm ăn.
Ông nói với học trò của mình như vậy, chính là từ kinh nghiệm tự học của mình? Ông đã tự học như thế nào? Làm sao để định hướng học mà ông cho là phù hợp với ông? Ông là người hiểu chính bản thân mình (muốn gì, sống vì điều gì?) một cách sâu sắc?
- Hồi còn đi học, ông Nguyễn Quân đã nói với tôi rằng: Người xưa đi học để hơn người. Bây giờ đi học là nâng cao chính mình. Và: Cậu muốn giầu, muốn có danh vọng thì dễ, nhưng muốn thành nghệ sỹ thì khó. Những lời nói đó tác động đến tôi sâu sắc. Thực ra cho đến khi gặp nhà sư Thích Thanh Dũng ở chùa Bút Tháp, một người chân tu hiếm hoi, qua những lần đàm đạo, tôi mới hiểu được thế nào là hiểu mình, hiểu rằng cái mà ta nhìn thấy, chỉ là cái mà ta nhìn thấy, không phải thế giới như nó vốn có.
Nhà sư Thích Thanh Dũng giúp ông hiểu mình, hiểu thêm bản chất thế giới, còn ai là người thực sự có ảnh hưởng trong cuộc đời của ông?
- Bà ngoại tôi và thầy Nguyễn Quân. Phần lớn kiến thức văn hóa cổ tôi chỉ cần quan sát bà tôi là ra. Thầy giáo là người chỉ cho tôi phương pháp nghiên cứu. Tôi mới viết cuốn Văn minh vật chất của người Việt, bằng câu chuyện kể từ bà của mình, và viết bằng giọng kể của một bà già.
Những người làm nghệ thuật có cách quan niệm khác về người ảnh hưởng. Ví dụ họ có thể chịu ảnh hưởng bởi một nghệ sỹ trong quá khứ, hay ở nơi nào đó xa sôi, mà hai bên không biết nhau. Pautopski nói rằng nhiều khi ông cảm thấy Puskin gần gũi với ông hơn những nhà văn cùng thời. Chúng tôi cũng vậy. Tôi thích họa sỹ cuối thời Phục hưng El Gretco, nhà văn Thạch Lam, họa sỹ trừu tượng Mỹ Frank Stella… những người cách xa tôi về không gian và thời gian. Chúng tôi gọi đó là ảnh hưởng xa và ảnh hưởng gần, hay ảnh hưởng lịch đại và đồng đại.
Ông bắt đầu công việc nghiên cứu nghệ thuật nói chung/ mỹ thuật nói riêng như thế nào?
- Khi đi học tôi cũng không hề nghĩ mình trở thành nhà nghiên cứu, hay họa sỹ. Thực sự thì tôi chỉ thích rong chơi. Tôi không hay ghi chép, tra cứu gì, mà nhớ tự nhiên thôi. Nhưng thầy tôi, ông Nguyễn Quân luôn hướng tôi vào việc viết lách, biên soạn những tài liệu về mỹ thuật để có thế tiến hành phê bình hay lý luận. Ông liên tục đặt tôi viết về những di tích cổ và những nghiên cứu hiện đại, ngay từ khi là sinh viên. Về nghệ thuật cổ hình như nó có sẵn trong tôi, chỉ việc chép ra, có điều lạ là làm sao thầy biết tôi có thể viết được về di tích này nọ.
Hai ba cuốn sách đầu tiên cũng là do thầy bảo viết chung với thầy. Tuy nhiên biết là một chuyện, viết ra là chuyện khác. Viết sách rất cực nhọc, tới mức cứ đụng vào giấy bút là tôi thấy kinh hãi. Thực ra tôi dành nhiều thời gian sống với các di tích nghệ thuật cổ, tôi đến các đình đền chùa chơi và thư giãn. Tôi viết bằng cách mô tả lại đời sống của di tích và của mình với di tích.
Cuốn sách đầu tiên của ông đã ra đời như thế nào ? Khi cầm cuốn sách trên tay, ông có cảm giác gì?
- Cuốn sách đầu tiên viết chung với thầy có tên là Mỹ thuật với mỗi người, do nhà xuất bản Đà Nẵng đặt. Chúng tôi biên soạn năm 1985, nhưng sau đó nhà xuất bản không in, và cũng không tìm thấy bản thảo đâu cả. Sau này tôi còn một bản thảo đánh máy, và nhờ ông Lương Xuân Đoàn giới thiệu cho một nhà xuất bản khác, nhưng họ cũng vứt đi nốt. Thế là công cốc.
Cuốn sách Mỹ thuật của người Việt là thứ hai, thầy và tôi biên soạn trong ba năm (1986 - 1988), và xuất bản năm 1989 ở nhà xuất bản Mỹ thuật. Đây coi như là cuốn đầu tiên được in. Tiền nhuận bút được hai trăm nghìn đồng, giá sách là hai nghìn. Thầy bảo không lấy tiền mà lấy tất sách đem biếu bè bạn. Nhờ công trình này mà tôi được ông Trần Quốc Vượng rất có thiện cảm. Sau đó thầy cho tôi đi chơi một tuần vào Thành phố Hồ Chí Minh. Đến nay cuốn sách vẫn là một tư liệu quý nhất là đối với những người dậy nghệ thuật cổ và sinh viên mỹ thuật.
Vậy khi biết cuốn Mỹ thuật với mỗi người “chết” ngay khi chưa được xuất bản trong khi hai ông đã mất rất nhiều công sức chỉ vì sự vô trách nhiệm, ông đã có suy nghĩ và cảm giác như thế nào?
- Cuốn sách đầu tay đó thực ra chưa tốt lắm, nên tôi cũng không quá tiếc, nhưng là kinh nghiệm quý báu để làm bản thảo cẩn thận về sau. Lúc đó chưa có vi tính, photo, nên chúng tôi đưa bản viết tay cho biên tập, mất mát là chuyện thường. Bản thân tôi cũng không quá cẩn thận, nên sau này tôi giao cho một sinh viên tất cả những gì mình viết và đánh vào vi tính. Đó là anh Nguyễn Anh Tuấn, người vẫn giúp tôi công việc làm sách đến giờ.
Tôi nghiên cứu tham và rộng, nên làm đến đâu thanh lý đến đó, để khỏi bừa bộn, và biết gì thì viết luôn thành bài, tư liệu nằm luôn trong đó, chứ không ghi sổ. Sau đó cái gì thừa vứt đi luôn. Các bài viết của tôi luôn nhiều tư liệu, số liệu vì thế, nó đòi hỏi tôi trình bầy cho dễ đọc, và đó cũng là cách rèn viết.
Tôi biết mình có nhiều sai lầm và võ đoán trong nghiên cứu, nhưng tôi cứ trình bầy ra, người khác đọc, chỉ ra chỗ sai, cũng là được việc. Tôi nghĩ rằng ta chỉ có thể tiếp cận chân lý, chứ không đến đó được tuyệt đối, đó là khoa học, con đường kế thừa và phủ nhận.
Nghiên cứu mỹ thuật vào thời điểm hiện tại đã là việc không dễ, nhưng vì sao ông lại hướng mình đi theo con đường “tái tạo lại lịch sử” mỹ thuật?
- Khi tôi đi học và nhận dậy môn Lịch sử mỹ thuật Việt Nam, tư liệu về môn này hoàn toàn trống rỗng, ngoài ba tập sách Mỹ thuật thời Lý, Trần, Lê sơ của viện Mỹ thuật và 10 tập ảnh mua của bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Cuốn Mỹ thuật của người Việt thực ra là cuốn Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam nhằm bổ khuyết cho sự thiếu hụt của khâu nghiên cứu mỹ thuật cổ. Chúng tôi phải tiến hành xác định nghệ thuật từ thời Tiền sử đến Bắc thuộc, và nghệ thuật từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 20, lúc đó chưa có nguồn tư liệu nào được công bố. Thực ra viện Mỹ thuật đã làm phần nào việc này dưới thời ông Nguyễn Đỗ Cung, nhưng mới là các báo cáo điền dã, chủ yếu là các kiến trúc, và còn nằm trong kho tư liệu.
Tôi có thể biên soạn cho trường cuốn Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam không khó khăn gì. Nhưng theo quy định tôi không có học vị nên muốn làm phải đứng tên chung với một giáo sư, tiến sỹ nào đó. Khổ nỗi chẳng ai dám đứng tên chung với tôi, nên cho đến nay không có giáo trình này.
Ông đã tác nghiệp ra sao để có được những tư liệu chính xác?
- Tôi bỏ ra hai năm đọc tất cả các tư liệu trong thư viện về khảo cổ học, nghiên cứu mỹ thuật, phần nào các báo cáo điền dã, nếu được xem, các bộ sách BAVH (Tập san Đô thành hiếu cổ), BFEO (Tạp chí Trường Viễn Đông bác cổ) được biên soạn từ thời Pháp thuộc, các sách của H. Parmentier, Leopold Cadière, L. Bezacie... là những nhà nghiên cứu văn hóa nghệ thuật ở Đông Dương. Cùng đồng thời tôi đi lại khảo sát tất cả các di tích bằng xe đạp và ô tô khách. Những di tích chính, thầy tôi cử nhà nhiếp ảnh Đỗ Huy đi theo tôi chụp lại. Tôi xác định các tư liệu trên văn bia và thần phả, sắc phong ở di tích. Tinh thần là vừa học vừa làm. Có điều rất thuận lợi là đi đến đâu cũng được nhân dân địa phương giúp đỡ, tha hồ chụp ảnh, dập bia, tạo điều kiện cho ăn ở, không ai hỏi gì về giấy tờ, mục đích công việc. Đó là việc không nhà nghiên cứu nào có được. Cho đến nay tôi cũng lấy làm lạ về việc này.
Ngành lịch sử nghệ thuật ở các nước luôn phải kết hợp với ngành khảo cổ học. Sinh viên học lịch sử nghệ thuật song song với học khảo cổ học. Sự kết hợp này hoàn toàn không được biết đến ở nước ta, nên các tư liệu lịch sử của tác phẩm nghệ thuật khó chính xác. Về cá nhân tôi có quan hệ tốt với ông Trần Quốc Vượng, ông Trịnh Cao Tưởng để hỏi han khảo cổ học. Tiếc thay hai tiên sinh đó đã về trời rồi.
Ông đã gặp khó khăn/ thuận lợi cụ thể như thế nào trong quá trình tác nghiệp?
- Như trên tôi đã nói việc đi nghiên cứu là hết sức thuận lợi, chỉ có tiền là tôi rất hiếm. Ba năm đó tôi gửi vợ con về nhà ngoại cùng đồng lương ít ỏi. Để có điều kiện đi, tôi nhận dậy học cho các trường Trung học văn hóa nghệ thuật tỉnh. Thứ Bẩy, Chủ nhật, tôi theo học sinh về chơi các địa phương quê họ, nhân đó mà đến các đình chùa. Cách này làm tôi đỡ tốn tiền. Đôi khi cũng phải làm vài việc hiếu hỷ thú vị. Ví dụ có lần 30 cô thợ thêu mang sổ tay đến nhờ tôi vẽ mẫu thêu. Tôi phải vẽ tất cả các buổi tối,dầy đặc các cuốn sổ, hôm nào cũng rất khuya, còn các cô ấy cứ chầu chực bên cạnh. Họ thích xem tôi vẽ và phấn khởi khi có một cuốn sổ như vậy.
Vậy là ông làm những việc này hoàn toàn một mình và tự lo về kinh phí?
- Sau này, trừ đôi lần nhận được hỗ trợ khiêm tốn từ hội Mỹ thuật và Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, vài giúp đỡ của bè bạn, tôi tự lo về kinh phí nghiên cứu. Số tiền cứ lặt vặt, nhưng tổng cộng lại rất lớn. Tiền đầu tư cho một cuốn sách có thể xây được một cái nhà. Nếu không viết sách có lẽ tôi có thể có đến ba bốn cái nhà...
Trước tiên tôi thấy là việc đi học như thế này không thiết thực lắm và không làm được nghề gì cả. Từ đó tôi học hết sức cầm chừng, miễn qua được lớp, rồi tự học một số thứ khác, như học vẽ, học chữ Hán và một số nghề cụ thể. Tôi thấy cả kho tàng Hán Nôm lúc đó chẳng ai coi trọng.
Phan Cẩm Thượng
|
---------
- Những người có giáo dục trân trọng tính cá nhân, do đó luôn rộng lượng, nhẹ nhàng, lịch sự, nhường nhịn…Họ không phát khùng lên vì mất cái búa hay cái tẩy, nếu sống với ai đó thì họ không coi đó là sự ban ơn, còn nếu ra đi họ sẽ không nói rằng: chẳng thể sống với các người! Họ bỏ qua cho sự ồn ào, cơn giá lạnh, miếng thịt rán quá lửa, các câu nói đùa cũng như sự có mặt của người lạ tại nhà của họ…
- Họ xót thương không chỉ người ăn mày hay lũ mèo. Họ thương cảm cả với những điều mà mắt thường không nhìn thấy được…
- Họ tôn trọng tài sản của người khác, do đó trả hết các khoản nợ nần.
- Họ thật thà và sợ điều dối trá như sợ bỏng. Đến các việc vặt họ cũng chả dám nói sai sự thật. Sự dối trá sẽ xúc phạm người nghe và hạ thấp người nói trong con mắt người nghe. Họ không khoe mẽ, hành xử ngoài đường cũng như ở nhà. Không phét lác đối với lớp trẻ. Họ không ba hoa, không giãi bày tâm sự nhất là khi người khác không yêu cầu. Tôn trọng người khác, họ thường im lặng nhiều hơn.
- Họ không hạ mình để cho người khác thương cảm và giúp đỡ họ. Họ không khơi gợi lòng trắc ẩn của kẻ khác, để được cảm thông và chăm sóc. Họ chẳng nói: “Người ta chẳng hiểu tôi”…
- Họ không lăng xăng. Họ chẳng quan tâm đến những hạt kim cương giả, cũng như sự quen biết với những người danh tiếng, sự thán phục của bạn rượu hay lời chào hỏi của những kẻ gác cửa…
- Nếu họ có tài năng, họ sẽ biết trân trọng nó. Họ sẽ vì nó mà hy sinh thời gian, rượu chè, phụ nữ, giao du…
- Họ sẽ giáo dục trong mình cái đẹp. Họ không thể mặc nguyên áo quần mà lăn ra ngủ, nhìn thấy tường nứt nẻ đầy rận rệp, hít thở không khí u ám, đi trên sàn nhổ đầy nước bọt, nấu ăn bằng bếp dầu. Họ sẽ chế ngự và tôn vinh bản năng dục tính. Họ không cần ở đàn bà chuyện giường chiếu, mồ hôi dầu, đầu óc toàn chuyện dọa dẫm bằng việc giả vờ có thai và nói dối quanh…Họ- đặc biệt là những họa sỹ-cần sự tươi mới, vẻ hoàn mỹ, tính nhân văn…Họ chỉ uống khi không bận rộn, vào những dịp đặc biệt…Bởi vì họ cần mens sana in corpore sano (tinh thần sảng khoái trong một cơ thể cường tráng).
----------
Một số bài hát về núi rừng Tây Nguyên.
Không biết có phải hồi nhỏ hay đi làm rừng, làm rẫy, nên thích núi, thích rừng, và cả con người của rừng của núi nữa?
1. Cơn mưu nhịp chiêng và nỗi nhớ (tác giả: Duy Thịnh, trình bày: Phi Ưng - R'ô Hằng)
2. H'ren lên rẫy (tác giả: Nguyễn Cường)
----------
40 bài học của cuộc sống bạn cần ghi nhớ
1. Cuộc sống không hề công bằng, bạn phải chấp nhận điều đó.
2. Khi mà bạn vẫn còn nghi ngờ, hãy luôn đặt ra câu hỏi.
3. Cuộc sống rất ngắn, chính vì thế bạn đừng phí thời gian để ghét một ai đó.
4. Đừng bao giờ khiến bản thân bạn trở nên quá đa nghi.
5. Hãy biết tiết kiệm tiền hàng tháng.
6. Bạn không phải là người chiến thắng trong mọi cuộc cãi vã, chỉ là việc đồng ý hay không đồng ý mà thôi.
7. Hãy khóc trước mặt một người mà bạn thực sự tin tưởng, điều này giúp bạn hàn gắn vết thương nhanh hơn là việc khóc một mình.
8. Thật không tốt khi bạn tức giận và đổ tội cho cuộc sống, cho tạo hóa. Hãy tự ngồi lại và suy ngẫm.
9. Hãy tiêu dùng một cách hợp lý để khi về hưu bạn sẽ có một khoản dưỡng già.
10. Hãy để quá khứ ngủ trong yên bình bởi nếu bạn có nhắc lại thì nó cũng không thay đổi được gì, đồng thời cũng không giúp ích mấy cho hiện tại.
11. Khóc trước mặt con cái bạn, điều này hết sức bình thường.
12. Đừng so sánh cuộc sống của mình với người khác. Bởi bạn không thể biết được cuộc hành trình tương lai của họ sẽ ra sao?
13. Nếu bạn có một mối quan hệ luôn phải giữ bí mật, tốt hơn hết bạn không nên duy trì nó.
14. Mọi thứ đều có thể thay đổi chỉ sau một cái chớp mắt. Nhưng đừng lo lắng, bởi Chúa không bao giờ làm được điều này.
15. Cuộc sống không chỉ có những bữa tiệc. Hãy cho mình sống bận rộn với công việc hoặc một niềm đam mê, sở thích nào đó.
16. Cuộc sống không chia thành những học kỳ và bạn không có kỳ nghỉ hè.
17. Một người viết văn luôn sáng tác. Nếu bạn muốn thành một nhà văn, hãy luôn học cách viết.
18. Khi một điều gì đó tới với cuộc sống của bạn, đừng hỏi tại sao mà hãy tận hưởng nó.
19. Không bao giờ là quá muộn để có một tuổi thơ hạnh phúc. Nhưng để có được điều đó lần nữa, tất cả đều phụ thuộc vào bạn.
20. Hãy đốt cháy những ngọn nến, mặc những bộ quần áo bạn thích… Đừng để dành nó cho một dịp đặc biệt nào cả bởi hôm nay đã là một ngày đặc biệt rồi.
21. Bạn không hoàn hảo và cũng không cần phải tỏ ra bạn là người hoàn hảo.
22. Hãy mạnh dạn khẳng định cái “tôi” của mình một cách lành mạnh.
23. Không ai có thể khiến bạn hạnh phúc, ngoại trừ chính bạn.
24. Bất cứ điều gì mọi người nghĩ về bạn, tất cả đều không có trong từ điển sống của bạn.
25. Dù hiện tại của bạn có tốt hay là xấu, điều đó sẽ thay đổi.
26. Công việc sẽ không giúp đỡ khi bạn bị ốm, chỉ có gia đình và bạn bè mới quan tâm tới bạn. Hãy luôn để ý tới họ.
27. Bạn nghĩ thế nào không quan trọng , chỉ có những điều bạn đang làm sẽ cho bạn biết mình là ai.
28. Bạn có thể chơi thể thao giỏi nhưng chưa chắc đã trở thành tuyển thủ quốc gia.
29. Không có công việc hợp pháp nào là hèn kém. Chỉ có người ngồi không rồi mới đáng xấu hổ.
30. Hãy có tham vọng nhưng đừng thất vọng.
31. Những gì chiếu trong tivi không giống ngoài đời.
32. Hãy quan tâm đến đời sống tình dục thật an toàn.
33. Đừng đổ lỗi cho người khác vì những quyết định của bạn.
34. Bạn không bất tử.
35. Lòng bao dung, sự tha thứ luôn là yếu tố cần thiết trong cuộc sống.
36. Đừng quên nói lời cảm ơn.
37. Hãy biết cách từ bỏ những thứ không có lợi ích trong cuộc sống của bạn và nghiêm khắc hơn với bản thân.
38. Không có thứ gì có thể “giết chết” được bạn, mỗi lần vấp ngã sẽ khiến bạn mạnh mẽ hơn.
39. Hãy tin vào những điều kỳ diệu.
40. Hãy ra ngoài sau mỗi giờ học tập, làm việc, có thể bạn sẽ khám phá ra nhiều điều ý nghĩa trong cuộc sống.
Nguồn: kimdunghn
---------
Tướng mạo xinh đẹp và phúc hậu - từ đâu?
Thật ra, tướng mạo không phải sinh ra là cố định, mà nó là phản chiếu của quá trình tu tâm và hành động lâu dài; cũng vì vậy, tướng mạo sẽ biểu lộ ra vận mệnh tương lai của một người.
Ảnh chỉ mang tính minh họa. Nguồn: trên mạng
Khuôn mặt xinh đẹp cũng là một loại phúc báo. Dù là phúc báo gì đều có căn nguyên của nó, giống như tài phú đến từ bố thí, tôn quý đến từ khiêm cung, khuôn mặt xinh đẹp đến từ dịu dàng lương thiện. Đến trung niên, tướng mạo đã đi vào ổn định, cũng là thể hiện của tính cách một người.
Nhiều người khoan hậu có khuôn mặt có phúc, người dịu dàng lương thiện có khuôn mặt xinh đẹp. Người thô bạo, vẻ mặt hung dữ; rất nhiều phụ nữ trung niên lão niên có phẩm tính không tốt, vẻ mặt thường cay nghiệt, cũng gọi là tướng bạc mệnh, khắc chồng. Thật ra, tướng mạo không phải sinh ra là cố định, mà nó là phản chiếu của quá trình tu tâm và hành động lâu dài; cũng vì vậy, tướng mạo sẽ biểu lộ ra vận mệnh tương lai của một người. Xem tướng là một loại tích lũy kinh nghiệm, tướng tùy tâm sinh, từ mặt biết tâm, từ tâm biết mệnh.
Thật ra, tướng mạo không phải sinh ra là cố định, mà nó là phản chiếu của quá trình tu tâm và hành động lâu dài.
Vậy nguồn gốc khuôn mặt tuổi thiếu niên, thanh niên ở đâu? Đặc thù của tướng mạo có quan hệ với sự di truyền của bố mẹ, như màu da màu tóc, nhưng khuôn mặt dáng người cùng tiên thiên có quan hệ, mức độ xinh đẹp là dựa theo những đời trước mà bố trí.
Nửa đời trước của một người, là ảnh hưởng từ kiếp trước, nửa đời sau, chính là tự mình. Vậy mới nói, sau khi đến trung niên, cần phải chịu trách nhiệm với hành vi của chính mình.
Lòng từ bi cũng là một yếu tố quan trọng. Người có thiện tâm, thường từ trong ra ngoài tản mát ra một loại hào quang, càng khiến người thuận mắt, càng ngày càng thích tiếp xúc. Mà người ích kỷ, giảo hoạt, so đo, tất khó nhìn, thậm chí xấu xí; cho dù may mắn có khuôn mặt đẹp đẽ, thì trên mặt cũng sẽ dần hiện ra một vài chỗ khiến người không thích, người ta thường nói khuôn mặt không có duyên, chỉ lần đầu gặp hơi thuận mặt, tiếp xúc nhiều liền không còn thuận nữa.
Xin hãy tin rằng, tướng mạo là có thể từng bước thay đổi đấy! Nhất là một khuôn mặt xinh đẹp sẽ từ trong ra ngoài tản mát ra một lực hấp dẫn, khiến người gặp bất tri bất giác sinh lòng mến mộ. Nhiều khi, xinh đẹp hay không, chính là từ tâm mà nhìn, “Tình nhân nhãn lý xuất Tây Thi” chính là đạo lý này, tức là nhìn người mình yêu càng nhìn càng thấy đẹp.
Vì vậy, muốn có dung mạo đẹp, trước cần nội tâm đẹp!
Một, người cam tâm tình nguyện chịu thiệt, lại nhận được càng nhiều. Người có thể chịu thiệt, nhân duyên nhất định sẽ tốt, nhân duyên tốt, cơ hội tự nhiên sẽ nhiều. Mỗi người khi còn sống, có thể nắm bắt một hai lần cơ hội là đủ!
Hai, người thích chiếm phần hơn, cuối cùng chẳng chiếm được bao nhiêu, nhặt được một ngọn cỏ, mất đi một rừng cây. Người mà vừa đến lúc tính tiền liền kiếm cớ đi việc khác hoặc móc hoài không ra tiền, cơ bản đều là những người không có thành tựu gì.
Ba, người có ánh mắt tiểu nhân, tâm địa nhỏ hẹp. Lúc bạn bè hội tụ, nói ra ba câu, đều không thoát khỏi chuyện cá nhân, người này chính là ốc sên chuyển thế, nội tâm hư không, ích kỷ. Trong nội tâm chỉ có chuyện nhà mình, những chuyện khác liền không liên quan đến anh ta.
Bốn, chỉ có tiếc duyên mới có thể tục duyên, tức là vun bồi duyên phận. Trên đường đời, nhiều người chúng ta gặp, thật ra đều có duyên mới gặp được nhau, hơn một nửa người thân chính là bạn tốt trong đời trước, còn bạn tốt thì hơn một nửa là người thân trong đời trước, mang đến phiền muộn cho bạn vì hơn một nửa là người bạn đã từng gây tổn thương. Vì vậy cần nhớ: Đối xử tử tế với người thân, quan tâm người bên cạnh, khoan dung những người làm bạn tổn thương, vì đây đều là nhân quả.
Năm, nội tâm vô khuyết gọi là phú, có thể bao dung người khác gọi là quý. Luôn vui vẻ không phải là một loại tính cách, mà là một loại năng lực.
Sáu, biện pháp giải quyết phiền muộn tốt nhất, chính là quên nó đi.
Bảy, tiếu khán phong vân đạm, toại đối vân khởi thì (cười nhìn gió mây nhạt, ngồi trông áng mây trôi).
Không giành là từ bi, không biện là trí tuệ, không nghe là thanh tịnh, không nhìn là tự tại, tha thứ là giải thoát, biết đủ chính là buông.
Tám, nội tâm không loạn, không khổ vì tình, không sợ tương lai, không giữ quá khứ.
Chín, kiếp này, bất kể thứ gì cũng sẽ không mang đi được, vậy nên hãy sống với hiện tại, cười với hiện tại, và hãy ngộ ngay bây giờ!
Tướng do tâm sinh, cảnh tuỳ tâm chuyển. (Ảnh minh họa)
Nguồn: kimdunghn/FB Đức Bảo Phạm
---------
---------
Bạn có thể phàn nàn vì hoa hồng có gai,
Hoặc bạn có thể hoan hỉ vì một cành gai lại có hoa hồng. (Ziggy)
Không phải sự giàu có hay cao sang tạo ra hạnh phúc,
Hạnh phúc có từ sự tĩnh lặng và công việc.
Hạnh phúc gặp trên đường chứ không phải ở cuối đường.
Kẻ dại đi tìm hạnh phúc nơi xa,
Người khôn vun trồng nó ngay dưới chân mình.
Nghệ thuật sống: Hoa hồng và hạnh phúc/youtube
---------
1. Tiền xu luôn gây ra tiếng động… nhưng tiền giấy lại luôn im lặng. Vì thế khi giá trị của bạn tăng lên, hãy giữ cho mình luôn khiêm tốn…và nói ít đi!
2. Càng nói ít, càng nghe được nhiều. – Alexander Solshenitsen.
...
4. Khi người khác hỏi những điều mà bạn không muốn trả lời, xin hãy cười và nói “tại sao bạn lại muốn biết điều đó?”.
5. Không ai cần đến một nụ cười nhiều như người không thể cho đi nụ cười.
6. Thành công lớn nhất là đứng dậy sau mỗi lần bị vấp ngã!
7. Rất nhiều người không dám nói lên những gì họ muốn. Đó là lý do tại sao họ không có được chúng. – Madonna.
8. Kiên trì làm việc tốt sẽ mang lại nhiều thứ. Như mặt trời có thể làm tan băng, lòng tốt có thể làm bốc hơi sự hiểu lầm, hoài nghi và thù địch. – Albert Schweitzer
9. Cuộc sống giống như một cuốn sách. Một vài chương khá buồn, một số chương hạnh phúc và một số chương rất thú vị. Nhưng nếu bạn chưa bao giờ lật thử một trang bạn sẽ không bao giờ biết những gì ở chương tiếp theo!
10. Bạn có thể kết bạn được nhiều hơn trong vòng hai tháng bằng cách quan tâm đến người khác hơn là hai năm cố gắng bắt người khác quan tâm đến bạn. – Dale Carnegie.
11. Tình bạn là một tâm hồn trú ngụ trong hai cơ thể. – Aristotle.
12. Tôi tiến bộ bằng cách ở cạnh với những người tốt đẹp hơn mình và lắng nghe họ. Và tôi giả sử rằng mọi người đều tốt đẹp hơn tôi ở một mặt nào đó. – Henry J. Kaiser.
13. Tranh cãi với một kẻ ngốc sẽ chứng minh rằng có hai kẻ ngốc. – Doris M. Smith.
14. Những người làm việc cùng bạn phản ánh chính thái độ của bạn. – Beatrice Vincent.
15. Đừng quá khắt khe với chính mình. Thậm chí những sai lầm cũng có nghĩa là bạn đang cố gắng!
16. Không có hành động tử tế nào, dù nhỏ, lại bị xem là lãng phí. – Aesop.
17. Bất luận lúc nào khi bạn nghe điện thoại, khi nhấc điện thoại lên xin bạn hãy cười lên, vì đối phương sẽ cảm nhận được nụ cười của bạn!
18. Cuộc sống vốn không công bằng, hãy tập quen dần với điều đó! – Bill Gates
19. Lưỡi không xương nhưng đủ cứng để làm vỡ nát một trái tim… vì thế hãy cẩn thận với ngôn từ của bạn!
20. Đừng bao giờ cố giải thích con người bạn với bất cứ ai. Vì những người tin bạn không cần điều đó còn những người không thích bạn sẽ không tin lời bạn đâu!
22. Nhu cầu cơ bản nhất của con người là nhu cầu thấu hiểu … và được thấu hiểu. – Ralph Nichols.
22. Hãy ghi nhớ 3 điều: CỐ GẮNG, KIÊN ĐỊNH, TIN TƯỞNG
CỐ GẮNG cho một tương lại tốt hơn
KIÊN ĐỊNH với công việc
TIN TƯỞNG vào bản thân và thành công sẽ thuộc về bạn
Nguồn: FB Đức Bảo Phạm
--------
Loạt phim của Mỹ cho trẻ em, vừa học tiếng Anh, vừa học về cuộc sống.
Mister Rogers' Neighborhood /English Café 509
Thử xem một tập trên youtube
-------
20 lời khuyên hữu ích khi cuộc sống có nhiều áp lực:
1. Luôn giữ nụ cười thân thiện, sảng khoái. Đây là phương pháp tiêu trừ áp lực tốt nhất, giúp trút bỏ ưu phiền, mệt mỏi, tạo sự thoải mái.
2. Tranh luận những chuyện viển vông, cao xa sẽ làm huyết áp tăng cao; ngược lại, sự trầm tĩnh sẽ giúp làm hạ huyết áp.
3. Tiếng nhạc nhẹ nhàng giúp giảm áp lực. Bạn có thể nghe hòa nhạc bằng piano, guitar hoặc các loại nhạc cụ khác để giải tỏa tâm trạng không yên.
4. Đọc sách báo không những hoãn giải áp lực mà còn giúp con người tiếp thu thêm kiến thức và tăng sự hứng thú.
5. Khi làm hỏng việc, cần nghĩ rằng ai cũng có thể phạm sai lầm, vì vậy hãy quên chuyện đó đi và tiếp tục công việc bình thường.
6. Khi gặp đau khổ, bạn có thể hét thật to hoặc khóc thành tiếng ở một nơi vắng vẻ; đây là một phương pháp giảm bớt áp lực bên trong cơ thể.
7. Đem lòng tốt giúp người, nhất định không để oán hận trong lòng.
8. Nên có suy nghĩ: “Trên đời không có gì tận thiện tận mỹ, tôi đã cố gắng rồi, tốt hơn càng hay, không tốt cũng không phải là lỗi của mình”.
9. Học cách thư giãn, đối với công việc, phải biết cách sắp xếp, trù tính hợp lý, kết hợp làm việc và nghỉ ngơi, sống thanh thản.
10. Học cách lánh mặt ở những nơi không cần thiết, những hoạt động rối ren phức tạp, thoát khỏi những mệt mỏi và lộn xộn do một số người mang lại.
11. Không sợ thừa nhận năng lực bản thân có hạn, học cách nói “không” với một số người trong những lúc thích hợp.
12. Lúc đêm khuya thanh vắng, hãy để cho lòng mình được thật sự yên tĩnh, khẽ khàng nói chuyện với bản thân, sau đó dần dần đi vào giấc ngủ.
13. Từ từ hòa vào nhịp điệu cuộc sống, sắp xếp thời gian nhàn rỗi vào chương trình làm việc hằng ngày.
14. Hòa mình với thiên nhiên, biết bằng lòng với những gì đang có và niềm vui thường ngày.
15. Bình tĩnh xử lý các vấn đề phức tạp, điều này sẽ giúp nhiều cho việc giảm áp lực lo lắng.
16. Viết thư cho người thân, bạn bè lâu ngày không liên lạc, không những để thổ lộ những cảm nhận của mình mà còn tạo cho người khác niềm vui bất ngờ khi nhận thư.
17. Khi bạn cảm thấy bất lực trong việc thay đổi hiện trạng, nên nhìn nhận vấn đề ở một khía cạnh khác. Đứng trước những vấn đề làm bạn khó xử, hãy tiến hành phân tích, sau đó tìm ra một phương pháp giải quyết thích hợp nhất.
18. Mỗi khi bực bội, bất an, hãy mở to mắt nhìn về một nơi xa, xem ở đó có những cảnh tượng đặc biệt gì.
19. Những ngày trước đây đều đã qua đi, vậy những ngày sau này cũng nhất định sẽ qua đi bình yên. Hãy học thuộc câu cách ngôn “Xe đến trước núi tất có đường đi”.
20. Cuối cùng hãy cùng cười thật tươi, để những áp lực trong cuộc sống trở nên nhẹ nhàng và tan biến.
(nguồn: kimdunghn)
------------------
Cảnh thi ngày xưa tại miền Nam(thập niên 1960)
"...
Chưa thấy một người làm quan, cả họ được nhờ, mà chỉ thấy cả nhà mệt nghỉ vì đứa con đi thi. Bố lo tiền cho con đi học kèm thêm suốt năm, mẹ nấu chè nấu cháo ăn dặm ban đêm cho có sức khoẻ, giữa khuya lại thức giấc quát con ơi đi ngủ thôi con kẻo mai không dậy đi học nổi! Bà nội ngày rằm mồng một sì sụp khấn vái xin Trời Phật phù hộ cho cháu nó thi đỗ phen này, bảng vàng đề tên, không hổ danh giòng họ.
Ngày đi thi bố chuẩn bị dầu nhớt cho chiếc xe từ mấy hôm trước để đưa sĩ tử đi đến nơi về đến chốn. Mẹ nấu món ăn cho lành, bổ dưỡng, dễ tiêu, để không bị đau bụng đau bão. Nhất định phải có chè đậu, phải nấu bằng đậu đỏ cho may mắn, không nấu đậu đen, và tuyệt đối không cho ăn chuối hay trứng gà trứng vịt những ngày này, nhất định không cho cơ hội trượt vỏ chuối hay lãnh trứng vịt!
...
Sau này gặp lại, bọn tôi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm đi học, đi thi ngày xưa. Kiến thức miệt mài nấu sử sôi kinh đã quên gần hết, nhưng điều không quên đi, không mất đi, là cái đạo đức, cái nền nếp làm người mà thầy cô đã dạy dỗ uốn nắn cho ngày xưa. Cách sống cho ra người ấy đã giúp cho học trò của thầy cô ngày xưa vươn lên ở bất cứ mọi nơi, khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi trở ngại, chinh phục mọi môi trường mới, chinh phục lòng người, tạo dựng một chỗ đứng trong đời cho mình và tìm cơ hội chăm lo lại cho người khác."
Nguồn: Thi cử.../hieuminh.org
--------
20 bài học vô giá giúp bạn sống tốt và ý nghĩa hơn.
Lâu lâu đọc lại, suy ngẫm.
20 bài học vô giá giúp bạn sống tốt và ý nghĩa hơn/ohay
-------------
John Dewey
"Từ đó, dễ dàng nhận thấy trẻ em là một sinh thể năng động, thu thập kiến thức, kỹ năng, cách ứng xử để sử dụng trong tương lai, nhờ sự tương tác với môi trường sống chung quanh. Vậy, trẻ em và môi trường sống là hai cực mà giáo dục phải tìm cách nối liền. Ông gọi đó là “cực tâm lý” và “cực xã hội”. Cực tâm lý là “bản năng” (nhu cầu, lợi ích, năng lực do bản tính tự nhiên mang lại), là nền tảng của giáo dục; cực kia là trình độ “văn hóa” đương thời (thành tựu và di sản văn minh, cung cách ứng xử tích lũy từ bao đời) như là thành trì ngăn ngừa việc “rơi trở lại sự dã man”.
Hai cực ấy quan hệ với nhau như thế nào? Đóng góp nổi bật của Dewey ở đây là tránh cả hai lập trường cực đoan. Theo ông, giáo dục “truyền thống” đặt văn hóa lên trên đứa trẻ, xem đứa trẻ là kẻ thụ nhận, chứ không phải người cùng tham dự. Cực kia cũng “sai lầm” không kém. Nhân danh giáo dục “mới”, “tiến bộ”, đặt đứa trẻ lên trên văn hóa, chú tâm vào những kinh nghiệm giới hạn của đứa bé, thay vì hướng vào hậu cảnh và chân trời rông rãi của văn hóa, vốn cần thiết để hiểu thế giới và hoạt động hiệu quả. Sau khi phê bình cả hai chủ trương cực đoan, Dewey đề xướng giải pháp tổng hợp: hãy từ bỏ việc “đặt trên” và “đặt dưới”, thay vào bằng hình ảnh của sự “liên tục”, trong đó đứa bé là khởi điểm và văn hóa là đích đến của giáo dục. Việc “diễn giải” các nhu cầu của trẻ em và hoán chuyển chúng thành những yêu cầu xã hội là nhiệm vụ cao quý nhất, đồng thời cũng là khó khăn nhất mà thầy cô giáo và phụ huynh phải thực hiện."
Một gam kinh nghiệm hơn một tấn lý thuyết/tiasang
-----------
[2]
----------------------------
[1]