Wireless Network_4_Lịch sử sóng điện từ

Chương 2. Tần số vô tuyến và anten

Nội dung

o Lịch sử của sóng điện từ

o Cơ bản về sóng điện từ

o Các đặc trưng của tần số vô tuyến

o Các hiện tượng xảy ra (behavior) khi truyền tần số vô tuyến

o Một số đại lượng vật lý liên quan đến tần số vô tuyến

o Tín hiệu tần số vô tuyến và anten

Để truyền thông không dây, phải sử dụng một trong hai phương tiện chủ yếu là sóng âm và sóng điện từ. Khi hai người giao tiếp với nhau, sóng âm sẽ được truyền qua môi trường không khí, sẽ được nhận và phiên dịch tại tai của người nhận. Hình thức truyền thông bằng sóng âm là hình thức cổ xưa nhất của truyền thông không dây.

Tuy nhiên, việc sử dụng sóng âm trong truyền thông ở khoảng cách xa sẽ không hiệu quả, do hiện tượng nhiễu trong dải sóng âm rất lớn và cần nhiều năng lượng để truyền sóng âm đi xa.

Sóng điện từ chính là giải pháp thay thế cho sóng âm, sóng điện từ được phân chia theo các tần số khác nhau và cần ít năng lượng để truyền thông trong phạm vi rộng.

Lịch sử sóng điện từ

[Mối quan tâm và sự mê hoặc của loài người với từ học và điện học đã có cách nay ít nhất là 2600 năm, khoảng năm 600 tCN. Đó là lúc, xưa như chúng ta biết, những người Hi Lạp cổ đại lần đầu tiên đề cập đến những tính chất bí ẩn. Nhà triết học Thales xứ Miletus đã quan sát thấy hổ phách, khi cọ xát, hút được lông chim và những chất liệu nhẹ khác. Ông cũng để ý thấy đá nam châm (magnetite) có thể hút được sắt.

Năm 1746, Johann Heinrich Winckler, một giáo sư Đại học Leipzig, cố gắng khai thác điện để truyền điện báo qua những khoảng cách dài.

Năm 1750, John Michell, nhà địa lý người Anh, xuất bản cuốn Chuyên luận về nam châm nhân tạo, mô tả cách thức chế tạo các nam châm thép mạnh và đưa ra một lời giải thích của khám phá của ông về định luật nghịch đảo bình phương cho lực hút và lực đẩy của các nam châm.

Năm 1802, tại Italy, Gian Domenico Romagnosi phát hiện ra một mối liên quan giữa điện và từ khi ông quan sát thấy một cột volta làm lệch một kim từ tính. Lời giải thích cho khám phá của ông xuất hiện trên một tờ báo Italy nhưng không được đa số cộng đồng khoa học chú ý tới.

Một cách tình cờ sau bước chân của nhà triết học Italy Gian Domenico Romagnosi, Hans Christian Ørsted trở thành nhà khoa học thứ 2 phát hiện ra mối tương quan của điện và từ. Tháng 4 năm 1820, nhà vật lí và hóa học người Đan Mạch, theo thuật lại, trong khi giảng bài về điện ông chú ý thấy kim của một la bàn gần đó tự sắp nó vuông góc với một dây dẫn mang dòng điện. Nghiên cứu sau đó của ông không đưa đến tận cùng của cái ông đã nhìn thấy, nhưng ông sớm công bố khám phá của ông trước thế giới, lần này đã hiểu được tầm quan trọng của nó. Thật vậy, tin tức của Ørsted đã gây ra một cơn chấn động trong cộng đồng khoa học, cho ra đời lĩnh vực điện từ học và đặt nền tảng cho đột phá mang tính lịch sử của Michael Faraday và James Clerk Maxwell sau này trong cùng thế kỉ.

Năm 1820, nhà toán học André – Marie Ampère, chỉ một tuần sau khám phá của Ørsted đã bắt đầu phát triển một lí thuyết nhằm giải thích hiện tượng và chứng minh rằng các dây dẫn song song, với dòng điện chạy qua, sẽ hút lẫn nhau khi các dòng điện chạy cùng chiều, nhưng xẽ đẩy nhau nếu chúng chạy ngược chiều nhau.

Năm 1820, dây dựng trên nghiên cứu của Ørsted, nhà vật lí Pháp François Arago tìm thấy mạt sắt không bị từ hóa tự định hướng theo một vòng tròn xung quanh một dây đồng có dòng điện chạy qua như thể nó là một nam châm, nhưng sẽ phân tán ra khi dòng điện mất đi.

Năm 1820, nhà toán học và vật lí Đức Johann Schweigger chế tạo cái ông gọi là bộ nhân điện có thể khuếch đại đáng kể từ tính của một mạch điện. Bộ nhân Schweigger trở thành dụng cụ chính xác đầu tiên có khả năng phát hiện và đo những lượng rất nhỏ của điện, cuối cùng trở thành cái gọi là điện kế.

Năm 1820, các nhà vật lí Pháp Jean-Baptiste Biot và Félix Savart thiết lập cái ngày nay gọi là định luật Biot-Savart, có thể dùng để tính từ trường ở một khoảng cách cho trước, tính từ một dòng điện là nguồn gốc sinh ra trường.

Năm 1821, Michael Faraday, một người thợ đóng sách cũ học việc khoa học dưới trướng Humphry Davy, vẽ sơ đồ từ trường xung quanh một vật dẫn và lặp lại các thí nghiệm của Ørsted trong phòng thí nghiệm của ông ở Viện Hoàng gia. Ông phát hiện thấy dòng điện có thể tạo ra chuyển động quay, đưa ông đến chỗ chế tạo một trong những động cơ điện nguyên bản đầu tiên.

Mặc dù ý tưởng về máy điện báo đã ra đời từ giữa những năm 1700, nhưng trong thập niên 1830 thì bản thân thiết bị này mới ra đời – chủ yếu nhờ phát minh gần đấy về nam châm điện. Một sự kiện quan trọng nữa góp phần mang lại công nghệ mới này là khám phá của nhà vật lí người Anh Charles Wheatstone rằng dòng điện chạy qua các dây dẫn dài với vận tốc lớn – khoảng 288.000 dặm mỗi giây. Mặc dù Wheatstone tính giá trị hơi lớn một chút – dòng điện, rốt cuộc, chẳng thể truyền đi nhanh hơn tốc độ ánh sáng – nhưng kết quả của ông là chính xác nhất tính từ trước đến bấy giờ. Máy điện báo tỏ ra là một dụng cụ định hình lịch sử, và nó đã làm sáng tỏ thậm chí với những người không phải nhà khoa học về tiềm năng to lớn của dòng điện khai thác được.

Trong thập niên này, chàng sinh viên nghệ thuật người Mĩ Samuel Morse trở nên hứng thú với ý tưởng máy điện báo. Ông biết rõ nhu cầu cho một dụng cụ như vậy: Trong lúc đi ra nước ngoài, ông chỉ hay tin vợ ông mất sau vài tuần vì thực tế chẳng có cách nào đưa tin đến ông nhanh hơn được. Morse đã phát triển một nguyên mẫu của dụng cụ, cũng như một bộ mã đặc biệt biến đổi các kí tự thành các vạch và các chấm.

Giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển của cáp điện báo là một nhà khoa học tài ba tên là William Thomson. Ông đã tự ghi danh mình vào lịch sử bởi việc phát triển một thang đo nhiệt độ tuyệt đối, và bắt đầu vào giữa thập niên 1850 đưa bản thân ông vào nghiên cứu cáp điện báo, trở thành giám đốc của Công ti Điện báo Đại Tây Dương. Ông đã lắp đặt thành công đường cáp xuyên đại dương, giành danh hiệu ngài Kelvin cho những nỗ lực của mình. Thomson còn có những đóng góp quan trọng khác cho công nghệ, trong đó có công trình nghiên cứu đặt nền tảng cho lí thuyết dao động điện, hình thành nên cơ sở của điện báo không dây.

Ba năm sau đường cáp xuyên đại dương đầu tiên, đường điện báo xuyên lục địa đầu tiên đã được hoàn thành ở nước Mĩ, nối từ Omaha, Nebraska, tới Carson City, Nevada. Công nghệ đó, phát triển song hành với đường sắt, giữ vai trò quan trọng trong cuộc Nội chiến, làm thay đổi diện mạo của báo giới, khuyến khích khai hoang miền tây và xếp xó dịch vụ đưa tin bằng ngựa thồ cổ xưa.

Thập kỉ 1870 được đánh dấu bởi phát minh ra một dụng cụ sẽ làm cách mạng hóa sự truyền thông của loài người còn hơn cả điện báo. Năm 1876, Alexander Graham Bell phát minh ra điện thoại.

Trong những năm 1880 nhiều nhà khoa học đang nghiên cứu tác phẩm của James Clerk Maxwell huyền thoại. Một trong số họ là nhà vật lí Đức Heinrich Hertz, người muốn xem ông có thể làm ảo thuật với sóng điện từ mà Maxwell đã lí thuyết hóa hai thập kỉ trước đó hay không. Để làm việc này, Hertz nghĩ ra một mạch dao động (nếu các lí thuyết của Maxwell đúng) sẽ phát ra sóng điện từ. Hertz còn chế tạo một vòng kim loại với một khe nhỏ bên trong nó – một thiết bị nhận được thiết kế để dò tìm sóng truyền đi từ máy dao động. Khi mang vòng kim loại tới gần máy dao động, các tia lửa điện từ dòng điện nhảy qua khe ở trong vòng, chứng tỏ sóng điện gửi vào không gian có thể phát hiện ra được. Các thí nghiệm của Hertz còn cho thấy, giống như sóng ánh sáng, các sóng điện từ này có thể phản xạ và khúc xạ, và chúng truyền đi ở tốc độ bằng như ánh sáng, nhưng với bước sóng dài hơn (Hertz còn quan sát thấy trong những thí nghiệm này khi ánh sáng chiếu lên một mặt kim loại, các electron bị bật ra – hiệu ứng quang điện).

Cho nên Hertz là người đầu tiên phát và thu sóng vô tuyến, mặc dù ông không đặt tên chúng như vậy, ông cũng không lường trước được tiềm năng thực tiễn không thể tin nổi của chúng. Tuy nhiên, những người khác sẽ sớm định hình các khám phá của Hertz thành điện báo vô tuyến và radio. Cuối cùng thì cũng những nguyên lí đó đã dẫn đến truyền hình và radar. Các thành tựu của Hertz được viện dẫn mỗi khi tham khảo đơn vị đo lường của tần số sóng vô tuyến, đơn vị hertz.

Những năm 1890, trong các thí nghiệm với ống tia cathode, nhà vật lí Đức Wilhelm Roentgen phát hiện ra một dạng trước đấy chưa biết thuộc bức xạ điện từ, tia X, có khả năng đi qua một số chất chắn sáng (kể cả các mô mềm của cơ thể) hấp thụ ánh sáng khả kiến. Khám phá đó đã làm cho ông nổi tiếng, làm thay đổi các lĩnh vực vật lí và y khoa và khơi nguồn cảm hứng ở những dạng thức khác có thể có của các tia điện từ.

Nhờ nghiên cứu của James Clerk Maxwell và Heinrich Hertz, và những người khác, cả hai đều hiểu bản chất của sóng điện từ và biết chúng có thể được sử dụng để truyền thông trên những khoảng cách dài. Tuy nhiên, có những trở ngại kĩ thuật phải vượt qua, gồm việc làm thế nào phát ra tần số và điện áp đủ cao. Tesla giải quyết nan đề đó vào năm 1891 khi ông đăng kí phát minh cuộn dây Tesla, nó có thể sử dụng để truyền và nhận các tín hiệu vô tuyến mạnh khi được điều chỉnh cho cộng hưởng ở cùng tần số.

Năm 1900, nhà vật lí Đức Max Planck công bố một lí thuyết đề xuất rằng các nguyên tử không giải phóng năng lượng của chúng theo một dòng liên tục, như các nhà khoa học vẫn nghĩ, mà ở từng lượng gián đoạn ông gọi là lượng tử. Nó là một ý tưởng cấp tiến, nhưng Planck đã không nhận ra phạm vi và hàm ý thật sự của nó, và trong nhiều năm cũng chẳng có người đương thời nào của ông nhận ra điều đó.

Cần đến thiên tài của Albert Einstein để lĩnh hội các hệ quả của ý tưởng của người đồng hương của ông. Tóm lấy quan niệm và Planck và làm việc với nó, Einstein, lúc ấy đang làm việc ở một phòng cấp bằng sáng chế Thụy Sĩ, đã phát triển một lí thuyết ấn định ánh sáng vừa là sóng vừa là hạt. Quan niệm khác thường này, đã làm sửng sốt các nhà vật lí đồng bạn của Einstein, cho rằng ánh sáng cấu thành từ các lượng tử (sau này gọi là photon), nhờ đó giải thích cho hiệu ứng quang điện, trong đó ánh sáng làm thoát electron ra khỏi kim loại.

Cũng trong “năm huyền diệu” 1905 này, Einstein đưa ra lí thuyết tương đối đặc biệt của ông. Với phương trình nổi tiếng E = mc^2, lí thuyết đã giải được mối quan hệ giữa thuyết điện từ và chuyển động bình thường, đưa đến một quan niệm cấp tiến rằng khối lượng và năng lượng là một và như nhau.

Mọi người bình thường không có kiến thức vật lí nhìn thấy điện và từ học bắt đầu làm thay đổi cuộc sống của họ. Ngày càng có nhiều ứng dụng được phát minh để khai thác dòng điện, bao gồm, trong những năm đầu của thế kỉ mới, máy hút bụi, lò nướng bánh, đèn flash và sắt. Các nhà phát minh tiếp tục phát triển radio, vẫn ở dạng trứng nước của nó. Ngành công nghiệp vận tải biển được kế tục bởi “điện báo không dây” cho việc truyền tín hiệu ở dạng mã Morse. Năm 1906, kĩ sư Mĩ Lee Dr Forest chế tạo ra ống ba điện cực (triode) có thể phát hiện tín hiệu không dây tốt hơn các thiết bị hiện có. Cuối năm đó, lần đầu tiên các thính giả say sưa nghe được giọng nói con người và phát thanh âm nhạc trên vùng “không dây”. Tuy nhiên, mãi cho đến thập niên 1920 thì phát thanh radio mới thật sự phát lên khỏi mặt đất.

Năm 1902 sau các báo cáo của Guglielmo Marconi về sự truyền tín hiệu vô tuyến xuyên Đại Tây Dương (1901), Oliver Heaviside của nước Anh phỏng đoán rằng một lớp dẫn điện nằm trên tầng cao khí quyển của Trái đất cho phép các sóng này truyền đi những khoảng cách trải rộng ra bất chấp sự cong của hành tinh. Ở nước Mĩ, kĩ sư điện Arthur Kennelly đã độc lập đi đến cùng kết luận đó và tầng khí quyển giả thuyết được gọi là lớp Kennelly–Heaviside hay tầng điện li.

Năm 1905 nhà vật lí Đức Albert Einstein thiết lập thuyết tương đối đặc biệt của ông và chỉ ra rằng điện và từ là hai khía cạnh của một hiện tượng.

Những cái nhìn ngày càng sâu sắc hơn về nguyên tử lần lượt xuất hiện trong thời kì này. Trong những năm 1920, George Uhlenbeck và Samuel Goudsmit, những chàng sinh viên đang nghiên cứu vật lí ở Hà Lan, đề xuất rằng các electron không chỉ quay xung quanh hạt nhân, mà còn quay tròn xung quanh trục của chúng, y hệt như Trái đất. Năm 1928, nhà vật lí Anh Paul Dirac tiên đoán sự tồn tại của một phản hạt với electron có cùng khối lượng nhưng điện tích và spin ngược lại. Các tiên đoán trở thành hiện thực bốn năm sau đó với việc nhà vật lí Mĩ Carl Anderson khám phá ra positron.

Trong khi tất cả những công trình này tiếp tục đi vào trí tuệ và phòng thí nghiệm của các nhà vật lí hàng đầu thế giới, thì công chúng thường dân thấy điện và những đổi mới do nó truyền cảm hứng làm biến đổi cuộc sống của họ. Một ví dụ là họ đang truyền đạt thông tin khác đi. Năm 1915, nhờ đèn ba cực của Lee De Forest, cuộc gọi điện thoại xuyên lục địa đầu tiên diễn ra, giữa San Francisco và New York. Năm 1920, một phần ba hộ gia đinh ở khắp nước Mĩ có một máy điện thoại. Dịch vụ sẽ được cải tiến với cáp đồng trục băng rộng, với nó một bằng sáng chế đã được cấp vào năm 1929.

Các tiến bộ về radio đã mang môi trường mới đến với nhiều người hơn. Năm 1920, đài phát thanh đầu tiên trên thế giới mở cửa kinh doan ở Pittsburgh, Pennsylvania. Vài năm sau đó, người Mĩ đã nghe tin đưa về vụ xử án lớn đầu tiên, vụ thử nghiệm “Monkey” nổi tiếng. Kĩ sư điện người Mĩ Edwin Armstrong phát minh ra mạch hồi phục, máy thu đổi tần và mạch đổi tần trong thời kì này, thực hiện những cải tiến lớn với radio.

Thập kỉ 1930 chứng kiến sự xuất hiện của radio FM, do Edwin Armstrong phát minh làm một sự thay thế cho AM. Phần lớn của nước Mĩ và phần nhiều của châu Âu đã được kết nối qua radio; vào cuối thập niên 1930, cứ bốn trong năm hộ gia đình Mĩ có một máy radio.

Năm 1931, nhà vật lí Đức Ernst Ruska, trong khi còn là sinh viên ở Berlin, xây dựng thấu kính electron đầu tiên, sử dụng một nam châm điện làm hội tụ một chùm electron giống hệt như một thấu kính làm hội tụ một chùm ánh sáng. Năm 1933, ông sử dụng một vài thấu kính electron ghép nối tiếp chế tạo ra kính hiển vi điện tử đầu tiên với độ xác định tốt hơn kính hiển vi ánh sáng.

Năm 1932, James Chadwick của nước Anh khám phá ra neutron, một hạt có khối lượng bằng như proton, nhưng không có điện tích. Nhà vật lí Mĩ Carl Anderson khám phá ra positron, một hạt có khối lượng bằng như electron, nhưng có điện tích dương thay vì điện tích âm.

Năm 1940, một mẫu sơ khai của máy dao động magneton, dụng cụ đầu tiên có khả năng tạo ra công suất rất cao ở tần số vi sóng, được xây dựng, cho phép những tiến bộ lớn trong công nghệ radar.

Năm 1945, máy tính và Tích phân số Điện tử (ENIAC), máy tính điện tử đầu tiên của thế giới, được hoàn thành, sau ba năm xây dựng.

Năm 1947, một đội các nhà vật lí do Phòng thí nghiệm Bell Telephone thuê phát minh ra transistor, một linh kiện điện tử gồm một chất bán dẫn và ít nhất ba điện cực chủ yếu sử dụng cho việc khuếch đại hoặc chuyển mạch. Sau đó, transisor bắt đầu thay thế các ống chân không trong điện tử học.][5]

Các công nghệ dựa trên sóng vô tuyến đầu tiên

Thông tin liên lạc dựa trên sóng điện từ đã được sử dụng trong nhiều thập kỷ. Cả truyền thanh và truyền hình đều dựa trên các sóng điện từ, cụ thể là sóng vô tuyến. Các sóng vô tuyến này cũng được sử dụng trong truyền tiếng nói không dây (điện thoại di động) và truyền dữ liệu.

Vào thập kỷ đầu tiên của thế kỉ 20, Guglielmo Marconi đã gửi, nhận và in kí tự S bằng máy điện báo Morse vượt qua Đại tây dương. Sự kiện này đã thúc đẩy các chính phủ, các cộng đồng doanh nghiệp quan tâm và đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực thông tin liên lạc không dây, đem đến nhiều kết quả như ngày nay.

Vào những năm 1920, sóng vô tuyến đã được sử dụng trong viễn thông, dịch vụ điện thoại vượt đại tây dương được thiết lập năm 1927 nối từ New York tới London.

Năm 1924 phòng thí nghiệm Bell đã tạo ra 1 thiết bị di động có thể truyền âm thanh dựa trên sóng vô tuyến, nhưng công nghệ này không thực sự hiệu quả và không được sử dụng rộng rãi cho tới những năm 1940.

Như chúng ta đã biết 2 máy tính có thể truyền dữ liệu cho nhau bằng việc sử dụng modem, modem thực hiện 2 chức năng: một là chuyển tín hiệu từ dạng số của máy tính sang dạng tương tự để truyền trên hạ tầng đường dây điện thoại, hai là quá trình chuyển ngược lại, từ tín hiệu tương tự sang tín hiệu số. Dựa trên ý tưởng này, hoàn toàn có thể thực hiện truyền dữ liệu dựa trên các giao tiếp không dây. Từ những ngày đầu, công nghệ dựa trên sóng vô tuyến chỉ được sử dụng trong phát thanh, truyền hình, truyền tiếng nói, thì ngày nay nó đã có một bước tiến dài trong việc truyền dữ liệu.

Một trong những vấn đề gặp phải ở giai đoạn đầu là độc quyền thiết bị. Cũng như con người, 2 thiết bị muốn giao tiếp với nhau thì phải cùng sử dụng một ngôn ngữ. Vì không có các chuẩn nên mỗi công ty sẽ tạo ra các thiết bị theo tiêu chuẩn của riêng họ, điều này dẫn tới sự không tương thích giữa các thiết bị của các công ty khác nhau. Các tổ chức IEEE, IETF và ANSI đã đưa ra các tiêu chuẩn để giải quyết vấn đề tương thích này, ví dụ chuẩn IEEE 802.11.

Quang phổ sóng điện từ [6]

o Gamam rays: tia gamma

o X rays: tia X

o UV – ultraviolet: tử ngoại hay cực tím

o IR – infrared red: hồng ngoại

o Microwave: vi sóng, vi ba, sóng cực ngắn

o Radio waves: sóng vô tuyến

o FM – frequency modulation: sóng điều tần, sóng ngắn

o AM – amplitude modulation: sóng điều biên, sóng trung

o Long radio waves: sóng dài

Một số ứng dụng của sóng điện từ trong lĩnh vực truyền thông hiện nay:

o Cực tím: sử dụng để truyền tín hiệu trên cáp quang

o Hồng ngoại: giao tiếp hồng ngoại (IrDA), điều khiển từ xa

o Vi ba: IEEE 802.11, IEEE 802.16

o Sóng vô tuyến: truyền thanh, cáp xoắn đôi

---------------------------------------------

Tham khảo:

[1] Trần Nghiêm, 2012, Bản chất của bức xạ điện từ, thuvienvatly.com

[2] website http://www.wi-fi.org

[3] website: http://www.wirelessvn.com

[4] website: http://vi.wikibooks.org/wiki/S%C3%B3ng_%C4%90i%E1%BB%87n_T%E1%BB%AB

[5] Trần Nghiêm, Lịch sử điện từ học, thuvienvatly.com

[6] http://vi.wikibooks.org/wiki/S%C3%B3ng_%C4%90i%E1%BB%87n_T%E1%BB%AB#.E1.BB.A8ng_D.E1.BB.A5ng

[7] http://vi.wikipedia.org

[8] Tom Carpenter, 2008, CWNA Official Study Guide, Mc Gram-Hill

Wireless Network_3_Các ứng dụng của WLAN

Cung cấp khả năng truy cập mạng một cách linh hoạt

Cho phép người dùng có thể sử dụng các thiết bị truy cập mạng không dây, để truy cập mạng tại mọi vị trí có phủ sóng WLAN.

Ví dụ, là 1 nhân viên quản trị mạng, bạn có nhiệm vụ đảm bảo cho hệ thống mạng hoạt động liên tục. Để làm việc này, bạn sẽ cài đặt chương trình giám sát mạng trên hệ thống máy server, nếu có sự cố về hệ thống mạng, chương trình sẽ gửi thông báo qua email của bạn. Bạn sẽ không cần thiết phải ngồi trực bên chiếc máy tính tại bàn làm việc, để kiểm tra email thường xuyên, mà có thể sử dụng các thiết bị di động (PDA, laptop, smartphone…v.v) để kiểm tra email trong khi di chuyển, học tập, hội họp…v.v. và có thể lập tức xử lý sự cố.

Mở rộng mạng

Cho phép mở rộng mạng tại các khu vực đặc biệt, ví dụ: các khu vực không thể đi dây cáp, không được thay đổi kết cấu của tòa nhà, địa hình hiểm trở…v.v.

Nối mạng giữa các tòa nhà cách xa nhau

Để kết nối mạng giữa các tòa nhà cách xa nhau, có thể kết nối bằng cáp (chôn dưới lòng đất, hoặc treo trên các cột trụ), giải pháp này chi phí cao, khó thi công vì đường đi của cáp có thể liên quan tới nhiều chủ thể khác nhau; có giải pháp khác là thuê đường truyền riêng từ các công ty điện thoại, giải pháp này chi phí cao, do phải trả phí hàng tháng.

Giải pháp thứ 3 cho trường hợp này là sử dụng WLAN, bằng cách cài đặt cầu nối không dây (wireless bridge) tại mỗi tòa nhà. Có thể sử dụng mô hình kết nối điểm tới điểm (point – to – point) hoặc điểm tới đa điểm (point – to – multipoint).

Cung cấp dịch vụ truy cập mạng không dây

Nhà cung cấp dịch vụ internet không dây (WISP – wireless internet service provider) là 1 nhà cung cấp dịch vụ internet dựa trên công nghệ không dây. Với người sử dụng ở những khu vực đặc biệt, việc triển khai lắp đặt đường dây kết nối internet khó khăn, chí phí cao, hoặc không thể thực hiện, thì giải pháp mạng không dây là lựa chọn tốt nhất cho họ.

WISP có thể hoàn toàn sử dụng công nghệ IEEE 802.11 hoặc WiMAX (IEEE 802.16) hoặc kết hợp giữa WiMAX và IEEE 802.11

Sử dụng cho văn phòng quy mô nhỏ (SOHO – small office/home office)

Đối với các văn phòng nhỏ, với khoảng 10 đến 15 máy tính, ví dụ: văn phòng luật sư, một trung tâm tư vấn xây dựng, cửa hàng in ấn,…v.v. có thể chỉ cần sử dụng 1 wireless router để thiết lập hệ thống mạng cho toàn văn phòng với chi phí thấp, triển khai nhanh.

Nếu sử dụng wireless router có kèm chức năng của 1 modem ADSL (ví dụ Linksys WRT54G) có thể cung cấp 2 dịch vụ cùng 1 lúc: kết nối các máy trong mạng nội bộ với nhau và cung cấp đường truy cập internet cho cả văn phòng.

Sử dụng trong tình huống cần thiết lập mạng trong thời gian ngắn

Trong các tình huống đặc biệt, cần hệ thống mạng để làm việc trong thời gian ngắn, thiết lập đơn giản, nhanh chóng, ví dụ: văn phòng của công trường xây dựng, văn phòng điều hành khắc phục hậu quả trong vùng bị thiên tai …v.v. Mạng không dây là 1 lựa chọn tốt.

Có thể sử dụng thiết bị vừa có chứng năng của 1 access point vừa hỗ trợ kết nối WAN, giúp kết nối các máy tính nội bộ với nhau và kết nối internet, ví dụ dòng thiết bị SonicWALL.

Sử dụng trong trường học

Với hệ thống WLAN các giáo viên có thể làm việc ở mọi vị trí, không bị bó buộc vào bàn làm việc cố định, giáo viên có thể khai thác các tài nguyên từ internet từ máy labtop mà không cần phải sử dụng đến cáp kết nối. Sinh viên có thể truy cập mạng internet và intranet để tham khảo các tài liệu, học tập, nộp bài và thực hiện kiểm tra qua mạng.

Sử dụng trong các nhà máy, nhà kho

Với môi trường này, khi triển khai WLAN cần khảo sát kĩ, để tránh vấn đề về nhiễu sóng, do các thiết bị trong nhà kho hoặc nhà máy gây ra.

Sử dụng trong bệnh viện

Sử dụng WLAN giúp các bác sĩ có thể nhanh chóng xác định được thông tin về các bệnh nhân cũng như các thông tin về y học thông qua kết nối mạng intranet và internet bằng các thiết bị truy cập WLAN. Vấn đề quan trọng hàng đầu trong hệ thống WLAN tại bệnh viện là phải đảm bảo thông tin được bảo mật.

Cung cấp khả năng truy cập mạng ở nơi công cộng

Ở nơi công cộng như quán cà phê, sân bay, bến xe, …có thể thiết lập các điểm phát sóng WLAN (gọi là các Wi-Fi hotspot) cho mọi người truy cập internet có thu phí hoặc miễn phí.

---------------------------

Tham khảo

[8] Tom Carpenter, 2008, CWNA Official Study Guide, Mc Graw-Hill

-----

Bạn muốn tự học HTML bài bản? Xem thêm

Wireless Network_2_Phân loại mạng không dây

Phân loại mạng không dây theo vùng phủ sóng (trải phổ)

Mạng không dây được chia thành 4 loại chính:

o Wireless PAN (WPAN)

o Wireless LAN (WLAN)

o Wireless MAN (WMAN)

o Wireless WAN (WWAN)

WPAN (wireless personal area network)

Mạng không dây cá nhân, được sử dụng để kết nối các thiết bị trong phạm vi hẹp, băng thông nhỏ, ví dụ: kết nối giữa máy tính cá nhân với tai nghe (headphone), máy in, bàn phím, chuột; kết nối giữa tai nghe với điện thoại di động…v.v. Các công nghệ thường được sử dụng là: Bluetooth, Wibree, UWB…v.v.

Công nghệ Bluetooth hoạt động ở băng tần 2,4Ghz nên có thể gây nhiễu cho các mạng WLAN, tuy nhiên, các cải tiến kĩ thuật của các thiết bị Bluetooth gần đây đã làm giảm tình trạng này.

WLAN

WLAN là hệ thống mạng LAN không dây, hiện tại (năm 2012), WLAN đang được triển khai dựa trên các chuẩn đã được cải tiến từ IEEE 802.11, cụ thể là IEEE 802.11g và IEEE 802.11n. Mạng này cung cấp khả năng kết nối lưu động, không cần cáp nối giữa các thiết bị. Khả năng kết nối lưu động cho phép người sử dụng có thể kết nối mạng khi di chuyển trong vùng phủ sóng của các điểm truy cập (access point).

Mạng WLAN có thể triển khai theo 3 vai trò: vai trò điểm truy cập (access role), vai trò phân tán (distribution role) và vai trò truyền tại lớp lõi (core role).

Tuy nhiên, do vấn đề về băng thông và tính ổn định, nên mạng WLAN chủ yếu vẫn được sử dụng để triển khai ở vai trò điểm truy cập, đóng vai trò như 1 điểm kết nối cho các máy tính kết nối vào mạng có dây. Access point được kết nối cố định vào mạng Ethernet, trong đó có các tài nguyên cần thiết cho người sử dụng như: máy chứa dữ liệu (file server), máy in, kết nối internet…v.v.

Ở vai trò phân tán, các cầu nối không dây cung cấp kết nối giữa các mạng có dây (kết nối backhaul), mỗi mạng được kết nối vào cổng Ethernet của cầu nối không dây, cầu nối không dây sẽ truyền dữ liệu qua các cầu nối không dây của các mạng khác, giúp các mạng có thể truyền dữ liệu qua nhau.

Vai trò truyền tại lớp lõi, trong vai trò này, hạ tầng mạng sẽ hoàn toàn dựa trên WLAN, giải pháp này chỉ thích hợp cho các mạng nhỏ cần phải thiết lập tốc hành, ví dụ: các mạng tại khu vực xây dựng, các vùng bị thiên tai.

WMAN (wireless metropolitan area network)

Mạng không dây đô thị, được triển khai bởi các nhà cung cấp dịch vụ truyền thông. Được triển khai dựa trên chuẩn IEEE 802.16. Công nghệ được sử dụng nhiều nhất là WiMAX. Băng tần sử dụng từ 2Ghz tới 11 Ghz. Băng thông 40Mbps cho kết nối tầm nhìn thẳng (line of sight) cố định và 15 Mbps cho kết nối không theo tầm nhìn thẳng, di động.

Mạng WMAN thích hợp cho các vùng địa lý hiểm trở, hoang vắng, vì không phải triển khai hạ tầng cáp tốn kém.

WWAN

Mạng diện rộng (WAN – wide area network) được sử dụng để kết nối các mạng LAN lại với nhau. Với các mạng LAN cách xa nhau, có nhiều công nghệ được sử dụng để kết nối chúng, ví dụ: công nghệ frame relay, công nghệ quay số dựa trên hạ tầng mạng điện thoại (analog dial-up), DSL, ISDN …v.v.

Với công nghệ WAN, để kết nối 2 mạng LAN ở xa, chúng ta cần sử dụng các loại cáp để kết nối mạng LAN tới mạng trục chính (backbone), và ở đầu còn lại, cũng cần sử dụng cáp để kết nối từ mạng trục chính tới mạng LAN. Công nghệ WWAN hoàn toàn khác, chúng ta không cần sử dụng dây dẫn để kết nối từ mạng LAN tới mạng trục chính và từ mạng trục chính tới mạng LAN ở xa.

Các công nghệ WWAN phổ biến hiện nay sử dụng công nghệ truyền thông quang vô tuyến (FSO – free space optics), các sóng vô tuyến được cấp phép và không cần cấp phép, hoặc kết hợp cả hai loại trên.

Với các mạng LAN gần nhau có thể sử dụng FSO, các sóng được cấp phép hoặc không cần cấp phép để kết nối, tuy nhiên, nếu mạng LAN cách xa nhau (khoảng vài trăm km) thì cần liên hệ với các nhà cung cấp dịch vụ.

Điểm khác biệt quan trọng giữa WWAN với WLAN, WPAN, và WMAN là WWAN thực hiện gộp nhiều kênh lại (ghép kênh - multiplexing) và truyền trên 1 liên kết đơn.

----------------------------

Tham khảo

[8] Tom Carpenter, 2008, CWNA Official Study Guide, Mc Graw-Hill

Wireless Network_1_Các tổ chức

Chương 1. Tổng quan về mạng không dây

Nội dung

o Các tổ chức

o Phân loại mạng không dây

o Ứng dụng của mạng không dây

Mạng cục bộ không dây (wireless local area network – WLAN) hiện nay đang được sử dụng rộng rãi, song song với mạng có dây. Việc triển khai mạng không dây trong các tổ chức, công ty đang là xu hướng chung. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với hệ thống mạng không dây chính là vấn đề bảo mật.

Vai trò của một số tổ chức trong lĩnh vực mạng không dây

Có thể chia các tổ chức thành 3 loại, theo chức năng:

o Cơ quan quản lý: đưa ra các quy định quản lý chung, liên quan đến lĩnh vực mạng không dây. Ví dụ: về chuẩn kỹ thuật viễn thông và tần số vô tuyến điện, an toàn bức xạ vô tuyến điện của thiết bị vô tuyến điện, thiết bị ứng dụng sóng vô tuyến điện, đài vô tuyến điện. An toàn tương thích điện từ của thiết bị vô tuyến điện, thiết bị viễn thông, thiết bị công nghệ thông tin, thiết bị ứng dụng sóng vô tuyến điện và thiết bị điện, điện tử. Lắp đặt, vận hành, kiểm thử thiết bị mạng, hạ tầng kỹ thuật viễn thông…v.v.

o Tổ chức quản lý các chuẩn về công nghệ: đưa ra các tiêu chuẩn về công nghệ, dựa vào các tiêu chuẩn này các nhà sản xuất khác nhau có thể sản xuất các thiết bị tương thích với nhau.

o Tổ chức phê chuẩn, cấp chứng nhận: kiểm tra tính tương thích, cấp giấy chứng nhận cho các sản phẩm trước khi đưa ra thị trường.

Cơ quan quản lý

Tại Việt Nam hiện nay, quản lý chuyên ngành về viễn thông là các cơ quan trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông. Các cơ quan này chịu trách nhiệm quản lý và tham mưu cho Bộ Thông tin và Truyền thông, nhà nước về lĩnh vực viễn thông dựa trên luật Viễn thông.

Ví dụ, trích trong nghị định 25/2011/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện luật Viễn thông:

“3. Tổ chức, doanh nghiệp sản xuất thiết bị vô tuyến điện để sử dụng tại Việt Nam phải đăng ký và tuân thủ các điều kiện theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông.

4. Thiết bị vô tuyến điện khi nhập khẩu hoặc tạm nhập, tái xuất phải được Bộ Thông tin và Truyền thông cho phép.

5. Tổ chức, cá nhân kinh doanh thiết bị vô tuyến điện phải thực hiện quản lý chất lượng viễn thông theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 Nghị định này.”

Tham khảo một số tổ chức quản lý về viễn thông trên thế giới:

Tại Mỹ, tổ chức quản lý về viễn thông là Ủy ban truyền thông liên bang (FCC - Federal Communication Commission). FCC là một cơ quan độc lập trong chính quyền Mỹ, quản lý các vấn đề liên quan đến lĩnh vực truyền thông. Ví dụ, FCC quy định 2 dải băng tần được sử dụng trong chuẩn IEEE 802.11 là 2,4 GHz và 5 GHz. Mọi người được tự do sử dụng 2 dải băng tần này mà không phải xin phép và không phải trả tiền. Tuy nhiên, do mọi người được tự do sử dụng nên có thể dẫn tới các vấn đề cần phải xử lý như: tranh chấp sóng, nhiễu và đảm bảo băng thông trong khu vực triển khai mạng WLAN.

Ngoài ra, FCC còn quy định về công suất đầu ra và vị trí sử dụng (trong nhà, hay ngoài trời) của các dải băng tần. Ví dụ: dải băng tần 2.4 có thể sử dụng cả trong nhà và ngoài trời, công suất phát tối đa tại bộ phát định hướng (intentional radiator) không vượt quá 1W (watt), giá trị này thường nằm trong khoảng từ 30 đến 300 mW (miliwwatt).

Tại Anh, cơ quan quản lý là tổ chức OfCom (Office of Communications).

Tại Nhật, cơ quan quản lý là Bộ thông tin và nội chính Nhật (MIC - Ministry of Internal Affairs and communications).

Trên thế giới, cơ quan điều phối là liên minh viễn thông quốc tế (ITU - International Telecommunication Union), là một tổ chức của liên hợp quốc, trụ sở tại Thụy sĩ, thành lập năm 1947, thành viên gồm các chính phủ và các công ty viễn thông. Mục đích của ITU:

o Giúp các thành viên trong liên minh hợp tác, hoàn thiện và sử dụng viễn thông hiệu quả.

o Phân bổ và quản lý tần số vô tuyến, các vị trí liên quan đến quỹ đạo của vệ tinh địa tĩnh.

o Đưa ra tiêu chuẩn viễn thông thế giới để đảm bảo chất lượng của các dịch vụ.

ITU gồm 1 số bộ phận:

o Thông tin vô tuyến (ITU-R: Radiocommunication) có nhiệm vụ xác định các tần số vô tuyến (radio) toàn cầu đáp ứng lợi ích của các nhóm cạnh tranh nhau.

o Tiêu chuẩn hóa viễn thông (ITU-T: Telecommunications Standardization) tập trung vào các hệ thống điện thoại và truyền thông dữ liệu.

o Phát triển viễn thông (ITU-D: Development) tạo ra cơ chế , điều chỉnh và cung cấp các chương trình đào tạo và các phương án tài chính cho các nước đang phát triển.

Tổ chức quản lý về các chuẩn công nghệ

IEEE

Viện kỹ nghệ điện và điện tử (IEEE: Institute of Electrical and Electronics Engineers): là 1 tổ chức phi lợi nhuận, hoạt động từ năm 1963, có hơn 360 ngàn thành viên (năm 2010) gồm kỹ sư, nhà khoa học, sinh viên trên toàn thế giới.

Mục đích hoạt động của IEEE nhằm nâng cao đời sống của con người bằng cách khuyến khích mọi người cải tiến về công nghệ điện, điện tử, truyền thông và tin học. Trong lĩnh vực mạng máy tính IEEE có dự án IEEE 802.

Dự án IEEE 802 được chia thành nhiều nhóm, ví dụ: nhóm 802.3 phát triển chuẩn cho mạng Ethernet, nhóm 802.11 phát triển chuẩn cho mạng không dây, nhóm 802.16 phát triển chuẩn cho mạng WiMAX, nhóm 802.20 phát triển chuẩn cho mạng điện thoại không dây.

Đóng góp quan trọng của việc xây dựng các chuẩn là giải quyết vấn đề tương thích giữa các nhà sản xuất thiết bị. Các nhà sản xuất thiết bị khác nhau sẽ tham chiếu vào chuẩn để tạo ra các sản phẩm có thể làm việc được với nhau.

IETF

Nhóm chuyên viên kỹ nghệ Internet (IETF: Internet Engineering Task Force) cũng là 1 tổ chức phát triển các chuẩn có liên quan đến công nghệ mạng không dây. Hai tài liệu quan trọng của nhóm này là RFC 3748 (đề cập đến giao thức chứng thực EAP – Extensible Authentication Protocol) và RFC 2865 (đề cập đến giao thức chứng thực RADIUS)

Tổ chức phê chuẩn, cấp chứng nhận

Liên minh Wi-Fi (Wi-Fi Alliance) được thành lập vào năm 1999 bởi 6 công ty là: 3Com, Aironet, Intersil, Lucent Technologies, Nokia và Symbol Technologies, số thành viên đến năm 2011 là 400 công ty, là 1 tổ chức phi lợi nhuận, có nhiệm vụ cấp giấy chứng nhận cho các thiết bị, giải pháp trong lĩnh vực mạng không dây thông qua quá trình kiểm tra và phân tích tính tương thích. FCC tạo ra các quy định chung, IEEE đưa ra nội dung các chuẩn công nghệ dựa trên các quy định chung của FCC và liên minh Wi-Fi đảm bảo tính tương thích của các thiết bị trong hệ thống mạng không dây, triển khai theo các chuẩn của IEEE. Các sản phẩm đã được liên minh Wi-Fi kiểm tra và cấp chứng nhận sẽ được dán logo của liên minh Wi-Fi (hình bên dưới).

Tiêu chí hoạt động của liên minh Wi-Fi:

o Cung cấp 1 diễn đàn cộng tác hiệu quả giữa các thành viên

o Phát triển nền kỹ nghệ wifi

o Thúc đẩy quá trình phát triển công nghệ bằng các chương trình và các kĩ thuật công nghệ mới

o Hỗ trợ các chuẩn công nghệ đã được phê duyệt

o Cung cấp các sản phẩm kết nối có chất lượng đã được kiểm tra và cấp chứng nhận

-----------------------------------------

Tham khảo:

[8] Tom Carpenter, 2008, CWNA Official Study Guide, Mc Graw-Hill

Đĩa cứng - 6 - Boot Sector dự phòng

(Tiếp theo của đĩa cứng 5)





FSINFO
Ổ đĩa định dạng theo FAT32 thường có dung lượng lớn, để tăng tốc độ xử lý của hệ thống, thông tin về các cluster còn trống hay không gian đĩa còn trống sẽ được lưu trữ tại FSINFO.
Vị trí của FSINFO được lưu trong trường SecFSINFO (byte thứ 48 – 49), tại Boot Sector của ổ đĩa logic.
Trên các hệ thống Windows giá trị này luôn là 1, vậy FSINFO nằm trên sector vật lý: 63 + 1 =  64.
Nội dung của FSINFO được thể hiện trong hình dưới đây.

 Cấu trúc của FSINFO được mô tả trong bảng sau:

Byte thứ
Mô tả
Giá trị ví dụ
0 – 3
Dấu hiệu nhận biết nơi bắt đầu của  FSINFO.
“52 52 61 41”
4 – 483
Vùng dự trữ, chưa sử dụng.

484 - 487
Dấu hiệu nhận biết, nơi bắt đầu của các trường có dữ liệu.
“72 72 41 61”
488 - 491
Cho biết tổng số các cluster còn trống trên ổ đĩa.
- Nếu giá trị là 0xFFFFFFFF: không biết được số các cluster còn trống, hệ thống phải thực hiện việc tính toán.
- Nếu nó mang giá trị khác: số cluster còn trống.
“D0 45 13 00”
=> 1263056 cluster
492 - 495
Cluster kế tiếp còn trống.
Giúp hệ điều hành biết nơi bắt đầu để tìm kiếm các cluster còn trống trên vùng FAT.
Trường này giúp tiết kiệm thời gian cho hệ thống, thay vì phải tìm số hiệu cluster còn trống từ đầu của vùng FAT, từ cluster số 2.
Giá trị này thường là số hiệu của cluster vừa mới được hệ thống cấp phát gần đây nhất.
Nếu giá trị này là 0xFFFFFFFF, có nghĩa là không có giá trị gợi ý và hệ thống phải tìm kiếm từ đầu vùng FAT.
“98 50 00 00”
=> cluster 20632
496 – 507
Vùng dự trữ, chưa sử dụng.

508- 511
Dấu hiệu nhận biết vị trí kết thúc của FSINFO.
“00 00 55 AA”
 
Boot Sector dự phòng
Do tính chất quan trọng của Boot Sector trên mỗi ổ đĩa logic, nên hệ thống FAT32 sử dụng sector 6 làm sector dự phòng cho Boot Sector.
Trong trường hợp Boot Sector bị ghi đè làm mất dữ liệu, các chương trình tiện ích sẽ khôi phục lại dựa vào thông tin tại Boot Sector dự phòng.
Nếu Boot Sector bị hỏng, thông tin tại Boot Sector dự phòng sẽ được sử dụng để giúp người dùng truy cập và lấy lại dữ liệu trước khi thay đĩa khác.
Đối với hệ thống FAT32 vùng được gọi là “Boot Sector” thực tế gồm ba sector đầu tiên, và cả ba sector này đều được lưu dự phòng.
Sector vật lý của Boot Sector dự phòng: 63 + 6 = 69.
Nội dung của Boot Sector dự phòng được minh họa trong hình dưới đây.



---------------------------------
Cập nhật: 2013/4/9

--------------------------------------------------

Tham khảo

[3] FAT32_Hardware White Paper

Nhiều người dùng chung 1 tài khoản gmail

Các tổ chức có sử dụng hộp thư gmail để liên lạc với bên ngoài thường cho phép nhiều người trong tổ chức của mình cùng sử dụng một hộp thư.

Để sử dụng hộp thư gmail này, các tổ chức thường cấp luôn cho mọi người tên đăng nhập (user name) và mật khẩu đăng nhập (password).

Tình huống trên thường dẫn tới 1 số vấn đề:

- Các cá nhân tự tiện thay đổi mật khẩu, giao diện, và các cài đặt khác. Điều này gây ra các rắc rối không cần thiết.

- Người sử dụng phải nhớ nhiều thông tin (tài khoản đăng nhập + mật khẩu của hộp thư tổ chức, tài khoản đăng nhập + mật khẩu của hộp thư cá nhân).

- Mất thời gian trong quá trình sử dụng do phải chuyển qua lại giữa 2 tài khoản (tài khoản của tổ chức và tài khoản của cá nhân).

Để khắc phục các vấn đề trên, có thể sử dụng chức năng ủy quyền sử dụng hộp thư (delegation) của gmail.

Để sử dụng chức năng ủy quyền, tổ chức sẽ chỉ giao tài khoản này cho 1 cá nhân quản lý, cá nhân này sẽ có toàn quyền sử dụng, thay đổi mật khẩu, và các cài đặt khác.

Cá nhân này sẽ thực hiện ủy quyền sử dụng hộp thư của tổ chức cho các cá nhân khác.

Khi đã được ủy quyền, các cá nhân vẫn sẽ đăng nhập vào tài khoản của cá nhân và sử dụng bình thường, khi cần thiết có thể chuyển qua hộp thư của tổ chức một cách thuận tiện, nhanh chóng, không cần nhập mật khẩu, thực hiện đọc thư, gửi thư; tuy nhiên, không được phép đổi mật khẩu và không được thực hiện các cài đặt khác.

Cách thực hiện ủy quyền:

- Đăng nhập vào hộp thư của tổ chức

- Bấm vào biểu tượng hình bánh răng ở góc trên bên phải, chọn mục Settings, chọn mục Accounts and Import

- Trong mục “Grant access to your account”, bấm vào Add another account để nhập các tài khoản được ủy quyền

- Nhập địa chỉ email của người được ủy quyền, bấm Next step, lưu ý, chỉ chấp nhận địa chỉ của gmail.

- Bấm vào mục Send email to grant access để gửi thông tin xác minh tới hộp thư được ủy quyền

- Người được ủy quyền sẽ nhận được thông tin yêu cầu xác minh thông tin này qua email. Người được ủy quyền có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu này, nếu chấp nhận, sau 30 phút quá trình ủy quyền sẽ hoàn tất.

- Để kiểm tra xem việc ủy quyền có thành công hay không, tại hộp thư của tổ chức, vào Settings\Accounts and Import, trong mục Send email as sẽ có danh sách các hộp thư đã được ủy quyền.

Với các tài khoản đã được ủy quyền, trong hộp thư của cá nhân, người sử dụng có thể dễ dàng chuyển qua tài khoản của tổ chức bằng cách bấm vào biểu tượng mũi tên hình tam giác, bên cạnh địa chỉ email, ở góc trên bên phải. Chọn Switch account và chọn địa chỉ email của tổ chức.

Để gở bỏ ủy quyền

- Đăng nhập vào hộp thư của tổ chức

- Bấm vào biểu tượng hình bánh răng ở góc trên bên phải, chọn mục Settings, chọn mục Accounts and Import

- Trong mục “Grant access to your account”, bấm vào delete để xóa tài khoản nào không muốn ủy quyền.

Lê Gia Công

Tham khảo: http://support.google.com/mail/bin/answer.py?hl=en&answer=138350