Khai phóng

----------
Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới. (http://vi.wikipedia.org)
----------
Trí thức - Nguyên Ngọc

Bản chất của người trí thức là luôn đặt lại vấn đề, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có sẵn, đã ổn định, đã được coi là xong xuôi, ngay cả trong chính anh ta.

Chắc chắn nhiều vị sẽ phát biểu về nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề rộng lớn này. Tôi chỉ xin chọn nói về một số khía cạnh sau đây, theo tôi là quan trọng. Và xin nói với tinh thần thẳng thắn như đã được kêu gọi.

A - Định nghĩa trí thức

1. Định nghĩa thế nào là trí thức là rất quan trọng, bởi từ đó mới có thể đặt đúng vấn đề vai trò của trí thức trong xã hội, cách ứng xử đúng đắn với trí thức, phát huy vai trò của trí thức...

Trí thức đương nhiên là người làm việc bằng trí óc. Nhưng không phải mọi người lao động trí óc đều là trí thức. Tôi tán thành anh Cao Huy Thuần khi anh nhắc lại định nghĩa sau đây của J.P. Sartre. Sartre gọi một người nghiên cứu trên hạt nhân để cho nổ ra trái bom nguyên tử càng lúc càng tinh vi là nhà bác học. Cũng nhà bác học đó, khi ý thức được cái khí giới giết người ghê gớm ông nắm trong tay, đứng lên hô hào chống bom nguyên tử, người đó ông gọi là người trí thức.

Như vậy một người được xác định là trí thức không phải căn cứ trên lượng kiến thức anh ta có, mà trên thái độ và hành vi xã hội của anh ta. Trí thức là người có trách nhiệm xã hội cao, dấn thân mạnh mẽ cho lý tưởng xã hội mà anh ta coi là đúng đắn, cao quý. Ở phương Đông ngày xưa người ta gọi người trí thức là "kẻ sĩ". Kẻ sĩ là người dấn thân vì lợi ích của toàn thiên hạ, sẵn sàng chiến đấu và hy sinh vì đại nghĩa của toàn thiên hạ. Trí thức như vậy là một phẩm cách đặc biệt, là một "chất" chứ không phải một "lượng". Một người có bằng cấp rất cao, một người có kỹ thuật rất tinh vi có thể là một nhà chuyên môn giỏi, một kỹ thuật viên cao cấp, nhưng chưa hẳn là một người trí thức.

Nhà văn Nguyên Ngọc. Ảnh: Nguyễn Á

Cần phân biệt việc đào tạo một đội ngũ chuyên môn cao với việc xây dựng một lực lượng trí thức cần thiết cho đất nước. Chẳng hạn kế hoạch đào tạo hai vạn tiến sĩ của Bộ Giáo dục và Đào tạo không đồng nhất với việc tạo ra hai vạn trí thức. Có thể có hai vạn tiến sĩ mà vẫn không có trí thức.

Tôi không nói việc đào tạo bao nhiêu tiến sĩ đó là không quan trọng, nhưng đó là việc khác. Cứ coi như ta đã đào tạo được hai vạn tiến sĩ rồi, thì để cho hai vạn tiến sĩ đó trở thành hai vạn trí thức lại phải làm một việc khác, có thể còn khó khăn hơn rất nhiều, đó là làm cho họ có tư cách, phẩm tính trí thức. Việc ấy đòi hỏi những yêu cầu khác, mà tôi sẽ xin cố gắng nói sau đây.

Tôi nghĩ hội nghị trung ương lần này nên bàn vấn đề xây dựng lực lượng trí thức đúng nghĩa của nó, tạo cho xã hội ta thật sự có một lực lượng có phẩm cách trí thức cao, đó là một việc đang bức xúc, chứ không phải chỉ có việc đào tạo một lực lượng có chuyên môn cao mà không có phẩm cách trí thức.

2. Vì sao một xã hội lành mạnh cần có những người trí thức?

Do từ định nghĩa trên kia, người trí thức thường là người vượt ra khỏi lĩnh vực chuyên môn của mình, lo "bao đồng" những việc chừng như không dính dáng gì đến chuyên môn của mình. Sartre gọi như vậy là "s'occupe de ce qui ne le regarde pas", lo những việc chẳng ăn nhằm gì tới mình. Việc không phải của mình mà anh ta lại coi là việc của mình, thậm chí chằm chằm tham gia, ráo riết can thiệp vào đó, cãi vã, tranh luận, chiến đấu có khi đến mất mình vì nó...

Anh Cao Huy Thuần gọi đó là "xớ rớ", người trí thức xớ rớ, can dự vào việc của xã hội, của chính phủ, của nhà cầm quyền, "quấy rầy", không để cho người ta yên. Việc không phải của anh mà anh lại tha thiết coi là của anh, chính cái sự coi đó khiến anh trở thành người trí thức (chứ không phải là nhà chuyên môn đơn thuần).

Xã hội cần những người xớ rớ như vậy, người cầm quyền luôn cần có những người như vậy quanh mình, không để cho mình yên, không để cho mình được yên trí, bởi vì đã yên trí thì tất là bắt đầu trì trệ, thậm chí sa sút, biến chất.

Tự do là điều kiện sống còn của trí thức. Không có tự do tư tưởng thật sự, cụ thể, thiết thực thì không có trí thức. Xin nói rõ là họ cần tự do tư tưởng rộng rãi nhất, tuyệt đối, không có bất cứ rào cản, cấm kỵ nào. Họ phải có được quyền suy nghĩ đến cùng, trên mọi vấn đề, lật lại mọi vấn đề, không bị bất cứ sự cản trở nào.

Nguyên Ngọc

3. Bản chất của người trí thức là luôn đặt lại vấn đề, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có sẵn, đã ổn định, đã được coi là xong xuôi, ngay cả trong chính anh ta. Như Marx nói: người trí thức "phê bình không nhân nhượng về những gì đang hiện hữu, không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không thụt lùi dù trước kết luận của chính mình hoặc trước xung đột với chính quyền, bất cứ chính quyền nào".

Người trí thức như vậy là người luôn phê bình, trước hết là phê bình những kết luận tưởng đã xong của chính mình, không chịu dừng lại trong những kết luận ấy, không chịu coi đó đã là chân lý bất khả xâm phạm; rồi từ đó đối với xã hội cũng vậy, anh ta không bao giờ chịu dừng lại trước những điều đã được coi là chân lý "vĩnh cửu".

Một xã hội muốn tiến lên thì phải thường xuyên tự nhìn lại mình, tự ý thức lại về chính mình. Trí thức là sự tự ý thức lại thường trực của xã hội. Tự ý thức lại, tự phê bình lại thường trực, không ngừng. Phê bình như vậy, trí thức góp phần giúp xã hội không dừng lại trên bất cứ một trật tự được coi là bất biến nào, giúp xã hội luôn tiến tới một trật tự tốt hơn, nhân đạo hơn, hợp lý hơn. Người trí thức do vậy mà trở thành lương tâm của xã hội, phát ngôn nhân của những lực lượng tiến bộ trong xã hội ở bất cứ giai đoạn nào của lịch sử.

Trí thức là những người tự đặt mình ra khỏi thẩm quyền của mình. Thẩm quyền của họ chỉ là cái chuyên môn mà họ có. Khi vượt ra khỏi cái chuyên môn chật hẹp đó, bức xúc can thiệp, phê bình trật tự xã hội thì họ trở thành trí thức.

Tại sao họ làm vậy? Tại vì, Sartre trả lời, "trí thức là người ý thức được sự xung đột xảy ra trong lòng họ và trong lòng xã hội giữa việc đi tìm sự thật qua thực tiễn hành động và hệ ý thức đang đô hộ. Ý thức được điều đó tức là khám phá ra những mâu thuẫn căn bản của xã hội, nghĩa là những xung đột giai cấp và, ngay trong lòng giai cấp thống trị, một xung đột hữu cơ giữa sự thật mà giai cấp đó nhân danh để thống trị và những huyền thoại, giá trị, tập tục mà nó bám giữ và truyền nhiễm vào những giai cấp khác để thống trị"...

Giai cấp thống trị nào cũng cần tạo ra những "huyền thoại" và áp đặt vào xã hội để thống trị. Người trí thức là người ý thức được những huyền thoại đó, mâu thuẫn, xung đột giữa chúng và thực tiễn xã hội, quyết phá giải những huyền thoại đó, để cho xã hội tiến lên.

Nhận thức này rất quan trọng: phải phân biệt việc đất nước cần có một đội ngũ chuyên môn giỏi (cũng là hết sức cần thiết và cấp bách) với việc xã hội cần có một lực lượng trí thức làm "chức năng" luôn tự hỏi lại về chính những giá trị đang được coi là chính thống của xã hội, luôn cật vấn về những gì đang có, luôn đặt lại vấn đề về các chuẩn mực đã được khẳng định.

Có người đã nói theo một cách chơi chữ: trí thức giữ cho xã hội luôn "thức" chứ không ngủ. Đảng cần những người trí thức là vì như vậy, chứ không phải chỉ cần những nhà chuyên môn giỏi bảo gì nghe nấy, như những cái máy tinh xảo mà vô cảm. Nói cách khác Đảng và Nhà nước cần có những người trí thức chân chính để luôn bị quấy rầy, luôn có người quấy rầy mình hằng ngày, trong mọi việc, không bao giờ để cho mình yên mà tự thỏa mãn và dừng lại, khô cằn.

Do vậy, thường xảy ra tình trạng người cầm quyền khó ưa được trí thức. Biết quý người luôn quấy rầy mình, luôn buộc mình không bao giờ được kiêu căng thỏa mãn, là phẩm chất của người cầm quyền giỏi. Tôi nghĩ nếu lần này Đảng đặt vấn đề bàn về trí thức thì chính là đặt vấn đề bàn về việc xây dựng lực lượng luôn quấy rầy mình đó, xây dựng cho họ cái phẩm chất dám và biết quấy rầy ấy, mạnh mẽ trao cho họ cái quyền đó, để cho xã hội và dân tộc tiến lên. Bởi Đảng không có quyền lợi riêng của mình, Đảng không có quyền lợi nào khác ngoài sự tiến lên không ngừng của xã hội, của đất nước.

Bàn về vấn đề trí thức cũng là bàn về khả năng của Đảng, của người cầm quyền chấp nhận được sự quấy rầy thường trực của tiếng nói phản biện thường trực ấy. Nâng cao năng lực của Đảng, của người cầm quyền chịu đựng sự quấy rầy phản biện ấy, vì quyền lợi của đất nước.

Tập sách của Nguyên Ngọc vừa ra mắt bạn đọc, phát hành bởi Nhã Nam và NXB Phụ nữ Việt Nam, tháng 6.2022. Ảnh: Lam Điền


B - Nhận dạng trí thức Việt Nam

1. Đặc điểm quan trọng nhất của trí thức Việt Nam là rất yêu nước. Cách mạng tháng Tám 1945, rồi suốt chiến tranh cứu nước, tuyệt đại đa số trí thức Việt Nam đều đi với cách mạng và kháng chiến, cống hiến hết mình cho dân tộc. Trong khi chẳng hạn ở Nga, sau Cách mạng tháng Mười 1917, tuyệt đại đa số trí thức lớn nhất đều bỏ ra nước ngoài, không đi với cách mạng.

Đó là vì cách mạng Nga đậm tính giai cấp, trong khi cách mạng ta chủ yếu là vì vận mệnh của dân tộc, trí thức Việt Nam là trí thức của một dân tộc bị sa vào ách nô lệ phải đứng lên tự giải phóng cho mình. Đây là chỗ mạnh, đồng thời cũng tiềm tàng chỗ yếu của trí thức ở ta: họ thiết tha yêu nước, nhưng đồng thời cũng là trí thức nhỏ bé của một đất nước hàng trăm năm không có độc lập, được thực dân đào tạo chủ yếu nhằm phục vụ bộ máy thống trị của chúng. Những người ưu tú nhất trong số đó đã vượt lên, tận dụng ngay được bản chất ưu việt của nền văn hóa Pháp dầu nó được thực dân truyền bá với những mục đích khác, tự làm giàu cho mình và cho đất nước...

Theo một cách nào đó thậm chí có thể nói chính nền văn hóa Pháp với những tư tưởng chói lọi của nó đã từng góp phần tạo nên cả một thế hệ những nhà cách mạng hiện đại Việt Nam. Trí thức Nga thì khác, phần lớn họ không đi với cách mạng, nhưng mặt khác họ là trí thức lớn của một quốc gia độc lập lâu đời, có phẩm tính trí thức lớn. Yêu nước nhưng nhỏ bé, tư cách trí thức không cao là đặc điểm cố hữu của trí thức ta.

2. Sau cách mạng, nhất là từ sau 1950 (giải phóng biên giới, ảnh hưởng tư tưởng Mao tràn vào...), trí thức lại liên tục bị vùi dập, làm nhục, qua chỉnh huấn, cải cách ruộng đất, đấu tranh chống Nhân văn Giai phẩm, và nhiều cuộc đấu tranh khác, liên tục... Tư cách trí thức thuộc địa vốn đã nhỏ bé lại ngày càng bị làm cho nhỏ bé đi. Mỗi lần người trí thức muốn tự khôi phục lại vai trò, tư thế của mình, thì đều bị vùi dập thêm. Mặc dầu vậy, nhiều người trí thức đã vì lợi ích của dân tộc mà tự mình vượt lên, cống hiến hết mình cho sự nghiệp chung, nhiều người thật sự đã có đóng góp lớn, và đã làm vinh quang cho đất nước.

Theo dõi cuộc đời và sự nghiệp của nhiều trí thức lớn ở ta suốt nhiều chục năm qua đều có thể thấy tình trạng đó: họ đều đã dũng cảm vượt qua những lần bị vùi dập bất công, vì lợi ích cao nhất của dân tộc mà quên mình đi, lao động dũng cảm và cống hiến. Cứ nhìn lại một số người tiêu biểu thì có thể thấy rõ: Trần Đại Nghĩa, Lê Văn Thiêm, Tạ Quang Bửu, Hoàng Tụy... Theo tôi, những đóng góp đó chưa được đánh giá đúng.

Nhận thức này rất quan trọng: phải phân biệt việc đất nước cần có một đội ngũ chuyên môn giỏi (cũng là hết sức cần thiết và cấp bách) với việc xã hội cần có một lực lượng trí thức làm "chức năng" luôn tự hỏi lại về chính những giá trị đang được coi là chính thống của xã hội, luôn cật vấn về những gì đang có, luôn đặt lại vấn đề về các chuẩn mực đã được khẳng định.

Nguyên Ngọc

Một ví dụ rất gần đây: năm vừa qua giáo sư Hoàng Tụy tròn 80 tuổi, thế giới toán học coi là một dịp quan trọng để vinh danh và bày tỏ sự kính trọng, biết ơn công lao sáng tạo của ông đối với toán học thế giới. Một hội nghị quốc tế về toán học đã được tổ chức ở Pháp, có mặt những nhà toán học lớn trên thế giới, tôn vinh ông. Trong khi đó cho đến nay Đảng và Nhà nước ta không hề có một lời đối với ông vào dịp này. Thật là một lỗi nặng của chúng ta... Còn có thể kể nhiều ví dụ như thế nữa.

Trong khi đó, cũng chính do cách nghĩ không đúng về vai trò của trí thức, tiếng nói phản biện xã hội vốn là thiên chức của trí thức, đối xử không đúng đối với những trí thức chân chính, định kiến nặng nề đối với những trí thức thẳng thắn và cương nghị, có tinh thần trách nhiệm cao với mọi vấn đề của xã hội, mặt khác, tất yếu, lại rất dễ tạo ra một loại trí thức dỏm, chuyên tâng bốc, nịnh hót những người cầm quyền, bao vây quanh họ những thông tin giả, gây rất nhiều tác hại. Loại đó hiện nay rất nhiều, làm ô nhiễm môi trường trí thức ở ta. Và rất nhiều khi lại được lãnh đạo ủng hộ, vì họ luôn nói dễ nghe, hóng gió mà nói theo.

Tôi nghĩ nếu quả thật lần này Đảng muốn thật sự bàn về vấn đề trí thức, xây dựng lực lượng trí thức xứng đáng với dân tộc, cho nhiệm vụ phát triển mới của đất nước, thì không thể không nghiêm khắc tự kiểm điểm lại về những khuyết điểm không nhỏ ấy, đã có hệ quả triệt tiêu vai trò có thể to lớn của một lực lượng trí thức dân tộc đã tự phấn đấu rất kiên cường để là những trí thức không hề tầm thường.

Quả thật, cho đến nay trong trí thức, còn có nhiều điều chưa được giải tỏa. Lòng tin của họ đối với lãnh đạo chưa cao. Đã đến lúc cần dũng cảm sòng phẳng trở lại một lần cho xong đối với một số vụ vùi dập trí thức từng xảy ra từ nhiều chục năm nay, nghiêm túc nhận khuyết điểm, nghiêm túc rút kinh nghiệm, để cho thanh thản với quá khứ và tránh mọi sai lầm lặp lại về sau.

Những người trí thức chân chính chỉ cần một thái độ thật sự chân thành như vậy của lãnh đạo, để có lòng tin vững chắc mà nhẹ nhàng, hết lòng cống hiến vì sự nghiệp lớn.

Một số trí thức Việt Nam tiêu biểu (từ trái): Trần Đại Nghĩa, Lê Văn Thiêm, Tạ Quang Bửu, Hoàng Tụy... Ảnh: TL


C - Để phát huy tốt vai trò của trí thức

Tôi nghĩ trước hết nên tránh cách nghĩ trí thức đòi hỏi sự đãi ngộ. Đối với người trí thức chân chính, nhấn mạnh đến đãi ngộ thậm chí đôi khi có thể là một sự xúc phạm đến họ.

Để xây dựng và phát huy lực lượng trí thức, theo tôi cần:

1. Trước hết nhận thức đúng về vai trò và chức năng của trí thức trong xã hội. Có thể nói một cách nôm na như thế này: trí thức sinh ra là để nói ngược. Chấp nhận tiếng nói ngược, ít nhất là bình đẳng với nó, tôn trọng nó, để tự ý thức rõ hơn về mình, công việc của mình, là bản lĩnh cần thiết của người lãnh đạo.

Trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập rộng lớn ngày nay, tiếng nói ngược như vậy càng quan trọng, bởi trong chiến tranh dù rất ác liệt nhưng về tư tưởng thì là theo chiều thuận, nó phù hợp sâu xa với tình thần dân tộc và lòng yêu nước vốn là sức mạnh lâu đời của người Việt. Xây dựng xã hội mới khó hơn nhiều, vì có rất nhiều điều không phải đã có sẵn trong bản chất hay truyền thống của con người Việt, phải phá vỡ rất nhiều quan niệm cũ, xây dựng những quan niệm mới, thật sự là một cuộc cách mạng có thể còn sâu sắc hơn bao giờ hết. Chính lúc này cần phát huy vai trò của trí thức, cần có một lực lượng trí thức có tính độc lập cao, để từ đó có nhiều suy nghĩ mới, táo bạo, mở đường, sáng tạo.

2. Yêu cầu cao nhất của người trí thức chân chính là được làm việc, được cống hiến, cống hiến tất cả tài năng, trí lực của mình cho đất nước, cho xã hội. Đãi ngộ họ đúng đắn là cần thiết, nhưng đãi ngộ rất nhiều mà không tạo điều kiện tốt nhất, rộng rãi nhất cho họ làm việc, thì đối với họ sẽ chẳng có nghĩa gì cả. Người trí thức chân chính thậm chí thường coi thường hình thức, ghét sự đãi bôi, khinh rẻ quyền lợi vật chất. Họ không cần những lời chào đón, đề cao hình thức, mà cần những điều kiện thiết thực để có thể làm việc, cống hiến nhiều nhất, hiệu quả nhất. Phải nói rằng chúng ta đang làm rất không tốt điều này.

Xin nêu một ví dụ: ngay một nhà bác học tầm cỡ thế giới như Pierre Darriulat, hết sức yêu Việt Nam, tự nguyện đến ở và làm việc tại Việt Nam, nguyện hết lòng làm việc cho Việt Nam như một chiến sĩ tình nguyện không công, mà cho đến nay một số ít điều kiện làm việc tối thiểu cũng không được những người có trách nhiệm tạo cho ông. Những ý kiến tâm huyết và hết sức sâu sắc, thiết thực của ông về nhiều lĩnh vực quan trọng cũng bị những người và tổ chức có trách nhiệm bỏ ngoài tai. Qua một việc cụ thể này chúng ta đang làm cho nhiều trí thức người Việt trong nước và ngoài nước nản lòng.

3. Bên cạnh những điều kiện về vật chất thật ra là rất ít ỏi người trí thức cần có, thì điều quan trọng, cơ bản, thiết yếu nhất đối với họ là tự do, tự do tư tưởng. Tự do là điều kiện sống còn của trí thức. Không có tự do tư tưởng thật sự, cụ thể, thiết thực thì không có trí thức. Xin nói rõ là họ cần tự do tư tưởng rộng rãi nhất, tuyệt đối, không có bất cứ rào cản, cấm kỵ nào. Họ phải có được quyền suy nghĩ đến cùng, trên mọi vấn đề, lật lại mọi vấn đề, không bị bất cứ sự cản trở nào.

Cần thật sự trao cho người trí thức quyền tự do tư tưởng cao nhất. Phải nói thật rằng chúng ta đang làm không tốt điều này. Tôi thấy chúng ta đang có tâm lý nặng nề sợ trao nhiều quyền tự do tư tưởng cho trí thức, viện những cớ rất giả tạo, vớ vẩn như kiểu "thù trong giặc ngoài" để hạn chế tự do. Tôi cũng thật sự không hiểu được tại sao một số người được bố trí vào một số cương vị nào đó thì bỗng nhiên tự thấy mình có quyền cho ai được tự do, ai không đủ trình độ để được tự do, quyền cho người ta được tự do đến đâu thì vừa, lúc nào thì được..v.v.

Vừa qua và hiện nay đang có một số việc làm vụng về, thiển cận, vô ích, và gây bất bình, mất lòng tin trong trí thức, làm cho tình hình nặng nề một cách không cần thiết, chẳng hạn như cách xử lý đối với tập thơ Trần Dần vừa rồi, hoặc theo chỗ tôi được biết những ý đồ tìm cách giải tán viện IDS, nơi đang có những tiếng nói phản biện của nhiều trí thức có trình độ, giàu tâm huyết, nghiêm túc... Nếu chúng ta cứ tiếp tục những việc làm kiểu đó thì mọi lời kêu gọi đóng góp trí tuệ, tài năng của trí thức cho sự nghiệp chung sẽ mất đi rất nhiều tác dụng, thậm chí vô nghĩa.

Đối với trí thức, không được dùng quyền lực. Những người trí thức chân chính không sợ quyền lực, thậm chí khinh rẻ quyền lực. Cùng lắm là họ sẽ đối phó lại bằng im lặng. Và chúng ta sẽ chẳng được gì cả, sẽ là mất mát rất lớn.

Chính vì vậy, nói xây dựng lực lượng trí thức thì trước hết lại là xây dựng thái độ đúng đắn của Đảng, của lãnh đạo đối với trí thức. Tôi xin nói: có được thái độ đó thì sẽ có trí thức, bằng không thì sẽ không bao giờ có, hoặc sẽ chỉ có trí thức dỏm, chỉ càng hại Đảng, hại cho sự nghiệp chung.

4. Để đào tạo một lực lượng trí thức lớn và mạnh, cần thiết cho sự phát triển lâu dài của đất nước thì một trong những điều kiện quan trọng nhất là phải có một nền đại học thật sự ra đại học, điều chúng ta hiện nay hầu như hoàn toàn không có. Cách đây mấy mươi năm, song song với vụ Nhân văn Giai phẩm, chúng ta đã phá tan mất một nền đại học rất đàng hoàng, với những trí thức lớn như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đình Hượu..v.v., và từ đó đại học của ta, như nhiều người nói, chỉ còn là một kiểu phổ thông cấp 4.

Điều kiện cốt lõi của đại học là độc lập tư duy. Nhiệm vụ cơ bản của đại học là tạo nên những con người có dũng khí, tư cách và khả năng tư duy độc lập; có như vậy nó mới chuẩn bị được cho đất nước một lực lượng trí thức mạnh, dồi dào. Và muốn có một nền đại học như vậy, thì trước sau cũng phải thẳng thắn giải quyết vấn đề tự trị đại học.

Tôi đề nghị cần đặt ra vấn đề ấy, có kế hoạch thực hiện từng bước, để đi đến có được một nền đại học đàng hoàng, cho công cuộc hiện đại hóa của đất nước. Dự định đến năm nào đó ta sẽ có được đại học vào top này top nọ của thế giới sẽ hoàn toàn là ảo tưởng nếu ta cứ một mực duy trì một kiểu đại học chẳng khác gì phổ thông như hiện nay. Có thể có một số đại học không thua kém ai, thậm chí trong một thời gian không dài, nếu ta dám thật sự làm đại học tự trị. Trước sau chúng ta cũng phải nhất thiết tiến đến đó, cần bắt đầu những bước đi đầu tiên từ bây giờ.

Đấy là một trong những điều kiện thiết yếu để xây dựng lực lượng trí thức xứng đáng cho đất nước, dân tộc, đáp ứng yêu cầu của phát triển.

Nguyên Ngọc

_______________

(*) Bài viết này là phát biểu của nhà văn Nguyên Ngọc trong Hội nghị chuẩn bị Nghị quyết về trí thức do Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập, năm 2008. Người Đô Thị trích đăng từ tập sách Dọc đườngphát hành bởi Nhã Nam và NXB Phụ nữ Việt Nam tháng 6.2022.



Nguồn: https://nguoidothi.net.vn/nha-van-nguyen-ngoc-ve-tri-thuc-36175.html?fbclid=IwAR3jT0f7PgCj5UW8tQAEcnl54CIF7-9cjXn3eS7ImgUEGIinjbNQBs-9tk0
-----
Tại sao học giỏi mà vẫn nghèo - Giản Tư Trung
https://www.youtube.com/watch?v=bQTmY1fFqWg
------
[Chép về từ fb của Lao Ta - lưu lại cho cá nhân, đọc để thêm ý tưởng]
https://www.facebook.com/profile.php?id=1160946631


THẦY PHẠM VĨNH CƯ
(Phần đầu)
Tôi xin thưa trước rằng đây không phải là một bản tham luận mang tính học thuật, về những thành tựu nghiên cứu, cũng như trước thuật của thầy Phạm Vĩnh Cư. Tôi không đủ kiến văn, sự từng trải, sự tự tin và một thái độ lạnh lùng cần thiết để làm điều đó. Đây cũng không phải là một phác thảo chân dung người mà tôi luôn cảm thấy mình còn lâu mới hiểu hết, còn lâu mới lượng định hết tầm vóc nhân cách và học vấn. Đơn giản với tôi, đây là những lời tri ân một người thầy lớn, có ảnh hưởng quan trọng và lâu dài đến sự nghiệp cầm bút, cũng như những thay đổi về nhận thức thế giới của tôi, một kẻ tận năm 30 tuổi mới được cầm trên tay những cuốn sách mà mình cần.
Tôi nhớ lần đầu tiên về trường viết văn Nguyễn Du, sau khi nộp thủ tục xong, Nguyễn Lương Ngọc và tôi được đưa sang phòng một người có khuôn mặt nghiêm nghị, mũi thẳng, tóc muối tiêu. Khi nghe anh Trần Niêm, cán bộ giáo vụ, giới thiệu chúng tôi, ông quay ra nói bằng thứ giọng hơi lắp bắp bày tỏ thiện ý được đón chúng tôi vào học. Ông nhìn chúng tôi chăm chăm, có lẽ vì cả hai đứa đều quá khắc khổ, từ vẻ mặt cho đến trang phục bảo hộ. Chúng tôi chả có chuyện gì để nói và hình như ông cũng đang bận, nên sau một lát thì chúng tôi xin phép đứng dậy. Khi quay ra, anh Trần Niêm bảo chúng tôi rằng đó là một trong vài người mà chúng tôi hoàn toàn có thể đặt niềm tin. Tên ông là Phạm Vĩnh Cư. Tôi nghe vậy nhưng thực sự không nhập tâm bất cứ điều gì.
Về học, cả thời gian dài chúng tôi vẫn không có ấn tượng gì với thầy Phạm Vĩnh Cư. Một mặt do vị trí công tác, mặt khác thầy Cư có vẻ hợp với văn hoá Sa-lông hơn. Khi truyện ngắn Bước qua lời nguyền của tôi trở thành một sự kiện văn chương trên báo chí, thầy Cư hầu như không biểu lộ thái độ gì rõ ràng. Sau đó tôi in một loạt truyện ngắn khác, Thầy cũng lặng lẽ theo dõi mà không phát biểu ý kiến. Vài học sinh các khoá trước luôn nói về Thầy bằng vẻ thán phục và bảo chưa đến ngày chúng tôi học thật sự , chừng nào thầy Cư còn chưa lên lớp! Điều đó gây cho một số đứa chúng tôi sự tò mò. Vì thế tôi bắt đầu quan sát thầy Phạm Vĩnh Cư. Nhưng tôi chưa tìm thấy điều gì khác thường từ vẻ kín đáo của Thầy, ngoài phát hiện Thầy rất thông thạo tiếng Nga, thậm chí có người còn cho rằng thầy Cư nói tiếng Nga lưu loát hơn tiếng Việt? Trong một lần hiếm hoi, sau khi đọc truyện ngắn Hoá kiếp của tôi trên báo Văn nghệ, thầy Cư bảo tôi rằng, chắc chắn là tôi sẽ còn tiến xa và hỏi: “Em đang có dự định sáng tác gì?” Trước đó tôi âm thầm nuôi quyết tâm bắt đầu lại cuốn tiểu thuyết viết về dòng họ bị bỏ dở từ khi ở Hoà Bình với cái tên mới tôi định đặt là: “Lão Khổ liệt truyện”. Tôi đã khoe cái tên đó với vài người và họ đều khen tên đó rất lạ mặc dù có hơi hướng Tầu. Nhưng khi trả lời thầy Cư thì không hiểu sao tôi lại đáp: “Em đang viết tiểu thuyết Lão Khổ”. Thầy Cư đầy phấn khích bảo: “Lão Khổ, tên súc tích nhỉ, được đấy”. Thế là cái tên “Lão Khổ” nghiễm nhiên trở thành tên chính thức của cuốn tiểu thuyết.
Tôi bắt đầu qua lại nhà thầy Phạm Vĩnh Cư ở khu tập thể số 25 Tràng Tiền. Thầy có một phòng làm việc, vốn cơi nới từ gian xép, ở tầng ba. Tuy chẳng tiện nghi gì nhưng hồi ấy cũng là lý tưởng. Tại đó Thầy cho tôi nghe nhạc cổ điển và nói về thân thế của một vài nhạc sỹ cũng như nghệ sỹ chơi piano vào loại hàng đầu của thế giới. Đối với tôi, kể cả việc nghe nhạc, đến những điều thầy Cư nói, đều vô cùng mới mẻ. Sau đó, theo đà hứng khởi của câu chuyện, thường khởi nguồn từ rượu và âm nhạc, thầy Cư dần dần cho tôi thấy cả một thế giới kiến thức mênh mông, từ cổ chí kim, từ văn học sang triết học, sang tôn giáo, từ hội hoạ sang kiến trúc, âm nhạc. Nó bao gồm châu Âu, đặc biệt là Nga, đến Nhật Bản, Ấn Độ, Do Thái…Tôi có cảm giác Thầy là một cuốn đại từ điển về kiến thức Bách khoa mà tôi có thể tìm bất cứ điều gì mình cần.
Mà toàn là những kiến thức hàng đầu, cực kỳ bài bản, hệ thống.
Do không bị mục tiêu vụ lợi và nham hiểm của chính trị bóp méo và đánh tráo nên chúng, những kiến thức ấy của thầy Cư mang thuần tinh thần khoa học. Tôi đâm ra xấu hổ bởi những gì mình vẫn đinh ninh về văn học Nga (khi đó tôi gộp chung vào thành văn học Liên-xô) cũng như một vài tác phẩm nổi tiếng khác của văn học thế giới. Những thứ mà tôi cứ nghĩ nó là kiệt tác, thì hoá ra chỉ là hạng bình dân trong thang bảng xếp hạng của thầy Phạm Vĩnh Cư (Sau này có chút trưởng thành, hoàn toàn độc lập trong đánh giá bất cứ tác phẩm nào, tôi hầu hết nhất trí với thầy Cư). Thậm chí nhiều tác phẩm (cả trong và ngoài nước) được báo chí và nhiều nhà phê bình chính thống tung hô lên mây xanh, thì tôi được Thầy khuyến cáo là không đáng để phải mất thời gian. Rồi thì tôi cũng biết không chỉ tôi, mà nhiều học viên khác cũng cảm thấy mình được khai mở khi tiếp xúc với thầy Cư.
Đặc tính khai mở là thứ bao trùm lên những bài giảng rất thiếu hấp dẫn với số đông, của thầy Phạm Vĩnh Cư, nhưng lại giống như một kho báu toàn châu ngọc với những người như tôi. Tôi cũng phát hiện ra lý do tại sao trong giới học thuật và trên văn đàn, thầy Cư luôn ít được biết đến. Thứ nhất Thầy không phải là típ người thích tạo dư luận. Thầy không tìm cách làm điều đó. Thứ nữa, Thầy quá khắt khe về thẩm mỹ, quá kỹ tính trong thẩm định và đặt cho nghệ thuật tiêu chuẩn quá cao, những thứ không bao giờ thuộc về đám đông. Sau này nghe những bài giảng của Thầy, tôi tìm thêm nguyên nhân thứ ba: quả thực Thầy có đủ lý do để không quan tâm đến nhiều thứ vẫn nổi đình nổi đám mà thực chất chỉ là những thứ phù phiếm, nổi lềnh bềnh trên bề mặt.
Tôi gắn bó hơn với thầy Cư sau khi Thầy cho tôi những khích lệ và cả những phê phán cay nghiệt bản thảo đầu tiên của tiểu thuyết “Lão Khổ”. Những gì thầy Hoàng Ngọc Hiến góp ý với tôi, rất quan trọng về mặt nghệ thuật trần thuật và mô tả, tức là cái giọng điệu cần phải thay đổi của cuốn sách. Còn những thứ thầy Cư góp ý, lại liên quan đến vấn đề triết học, triết lý, tư tưởng, sự thăm thẳm của cái tuyệt đối và chiều sâu thẩm mỹ. Với Thầy, nếu cứ như bản thảo hiện tại, “Lão Khổ” còn nhiều vấn đề phải xem lại, đặc biệt phải kỳ công hơn rất nhiều. Thầy dùng hình ảnh “Cú chộp của sư tử” để ngụ ý rằng, phải tạo ra một cái gì đủ sức giáng một đòn mạnh vào tội lỗi. Thầy đặc biệt khen tôi ở khía cạnh phát hiện ra tội ác trong ý nghĩ, thể hiện ở những lời nguyền. Bởi vì hãy giả định mọi lời nguyền đều ứng nghiệm, linh nghiệm, thì kẻ giết người kinh khủng nhất là giết bằng ý nghĩ độc ác. Mà những kẻ như vậy thì nhiều nhan nhản. Nhưng cái chương tiểu thuyết “xương sống” thể hiện điều đó, cũng là chương bí ẩn nhất, mang tầm triết học cao nhất, thì-theo như lời Thầy-có bóng dáng của sự suy đồi?
Tôi nhớ là mình đã toát mồ hôi khi nghe Thầy nhận xét như vậy. Khi đó tôi hiểu hai chữ suy đồi nặng về khía cạnh đạo đức, mà không hiểu theo nghĩa triết học của nó là phản nhân văn, chống lại sự tiến bộ, chống lại sự sống. Cụ thể là nó, cái chương đó, vô tình đề cao sự huỷ hoại. Sự thực thì tôi không chủ ý làm điều này. Chỉ là do tôi không kiểm soát được về mặt văn hoá. Tôi quá mải mê chạy theo mô tả pháp thuật, bị lôi kéo bởi nhu cầu làm kì bí hoá một khía cạnh tâm linh mà quên không đặt những hành vi mang dấu ấn tội ác rõ ràng trước sự trừng phạt tất yếu! Người bình thường sẽ không thể nhận ra, thậm chí còn khoái trá với những việc nhân vật hành động trái ý Tạo hoá, cũng tức là phản đạo đức. Nếu cứ như vậy mà không bị phản biện, tôi sẽ phạm vào điều nguy hiểm là cổ vũ tội ác.
Lại một lần nữa thầy Cư gián tiếp khai mở cho tôi. Trong quá trình viết lại cuốn tiểu thuyết, tự tôi cũng thấy trưởng thành lên rất nhiều về thẩm mỹ cũng như triết lý nhân sinh. Và những gì mà bạn đọc biết được ở chương nói về nhân vật pháp sư trong “Lão Khổ”, là tôi đã gần như lật ngược lại ý ban đầu sau khi có ý kiến của thầy Cư.
Lần đầu tiên những người như tôi được nhập môn về tư duy tiểu thuyết, tư duy nhìn cuộc sống, nhìn lịch sử bằng nhiều chiều, nhiều điểm, nhu cầu phải giải thiêng thần tượng, đề cao tính đối thoại, tính đã âm, đa thanh của văn văn học (để phân biệt với tư duy sử thi vốn chỉ có một điểm nhìn, đã trở nên lỗi thời bởi tính phiến diện, toàn trị của nó), qua tác phẩm của nhà lý luận văn học lỗi lạc người Nga Bakhtin mà thầy Phạm Vĩnh Cư dầy công chuyển ngữ và phổ biến.
Nhân nói về Bakhtin, tôi không thể không nhắc đến một trong những bài giảng tuyệt hay của thầy Phạm Vĩnh Cư về Rabelais. Theo thầy, chính nhà bác học Nga đã “tìm lại” cho nước Pháp một nhà văn lỗi lạc không chỉ của nước Pháp. Tiếng cười trào tiếu dân gian trong tác phẩm của Rabelais mang tầm vóc của sự thanh tẩy thời đại, thực hiện sứ mệnh tống cựu nghinh tân, phá tan những tù ngục đạo đức, lột truồng sự dối trá vây bọc con người và chính tiếng cười đó đã góp phần tạo ra một thứ ánh sáng mới.
Càng gắn bó với Thầy, ngoài học kiến thức, tôi còn tiếp nhận ở thầy Cư một thứ cực kỳ quan trọng cho người cầm bút, nhất là trong bối cảnh của xã hội ta, đó là tinh thần tự do nghệ sỹ. Thầy khẳng định nhiều lần qua những bài giảng, là không có tự do thì không thể có sáng tạo thật sự. Tự do là thứ Thượng đế ban cho (cũng có thể là gánh nặng mà Ngài chất lên vai) con người. Con người biết đến đau khổ từ khi nó được ban cho quà tặng đó, một gánh nặng luôn quá sức với nó. Nó thậm chí, nếu có thể, khước từ là cách hay ho nhất cho nó. Nhưng thiếu tự do thì con người sẽ chỉ là cỗ máy được lập trình và không xứng đáng để Chúa trời phải cứu chuộc bằng sự hy sinh đau đớn như vậy. Tại sao Chúa không dùng quyền năng để con người khiếp sợ mà răm rắp làm theo lời ngài, một việc có lẽ là đơn giản nhất? Bởi vì Ngài biết rằng Ngài tạo ra con người cùng với tự do. Ngài không thể tước ở con của Ngài thứ quà tặng đó, thứ mà thiếu nó thì công cuộc tạo lập của Ngài không hoàn hảo, thậm chí vô nghĩa. Tự do, ở thời kỳ con người ý thức nó có cái quyền ấy, luôn gây ra những hậu quả trái ngược. Một mặt nó biết nó là Con Người với nhân phẩm cao quý phải được tôn trọng, nó có quyền sáng tạo nên những giá trị thuộc về cái đẹp, nó có quyền lựa chọn đau khổ hay hạnh phúc. Nhưng mặt khác, nó cũng có thể tự do lựa chọn hoặc cái thiện, hoặc cái ác. Trong trường hợp nó lựa chọn cái ác thì Tự do quả là kinh khủng. Vì thế con người không có cách nào khác là phải hướng về Đấng Toàn Năng, có thể hiểu là nơi chứa đựng Cái Tuyệt Đối chuẩn mực.
(Còn nữa)
-----
[Lấy về từ fb của thầy Lê Trường Tùng. Cám ơn thầy]
-----
(10 năm cháy bỏng khát vọng đổi thay #3) 
Ngày 8/9/2006 (đúng 10 năm trước), Thủ tướng ký quyết định thành lập Trường ĐH FPT. Đã sang tháng 9 – các đợt tuyển sinh quốc gia theo phương thức 3 chung đã khép lại, các trường đại học đã khai giảng xong. Chẳng lẽ chờ mùa tuyển sinh năm tới? 
Tôi nói với Hội đồng Quản trị là để tuyển sinh, theo quy định thì cần phải làm thủ tục mở ngành, sau đó xin chỉ tiêu với Bộ GD-ĐT. Nhìn quyết định thành lập ĐH FPT vừa được Thủ tướng ký tuần trước, anh Trương Gia Bình cau mày: cứ xin cho thế này thì phát triển thế nào được, Thủ tướng ký rồi, chúng ta không nhận tiền nhà nước, lại đào tạo CNTT - ngành tủ của FPT, đào tạo nhân lực cho FPT sử dụng, sao lại phải xin. 
GS Nguyễn Văn Đạo ủng hộ tự chủ. Ông dặn tôi cần nắm vững quy định nhà nước để biết cái gì làm được. Ông căn dặn: những gì quy định trong các Luật do Quốc hội thông qua thì phải tuân thủ, còn những gì quy định bằng văn bản dưới luật thì nếu cần cứ xin thí điểm để làm khác, với lý do là để làm tốt hơn. “Làm khác để làm tốt” trở thành phương châm hoạt động của ĐH FPT từ ngày đó.
Ngày 17/9/2006, 10 ngày sau khi có giấy phép, tại phòng họp nhỏ cuối hành lang tầng 2 tòa nhà FPT 89 Láng hạ Hà nội đã thông qua Chương trình hành động Thí điểm Tự chủ gồm 6 điểm chính: 
(1) Gặp 2 Bộ “ruột” – là Bộ Khoa học Công nghệ - cơ quan chủ quản của FPT, và Bộ Bưu chính Viễn thông (nay là Bộ Thông tin Truyền thông) – cơ quan quản lý nhà nước về CNTT - trình bày về quan điểm “tự chủ” và xin công văn ủng hộ. 
 (2) Gặp gỡ trực tiếp, vận động sự ủng hộ của Bộ trưởng mới của Bộ GD-ĐT và lãnh đạo Văn phòng Chính phủ. 
 (3) Với công văn ủng hộ của 2 bộ “ruột” và việc bật đèn xanh của lãnh đạo, gửi công văn chính thức cho Bộ GD-ĐT đề nghị được thí điểm tự chủ, tức là được tự quyết định dạy gì, dạy bao nhiêu sinh viên và tuyển sinh thế nào. 
 (4) Công bố phương án tuyển sinh rộng khắp. 
 (5) Nếu vấn đề trở nên phức tạp, xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. 
 (6) Hành động quyết liệt. 
Chương trình 6 điểm này được ghi ở góc dưới bên trái bảng làm việc trong phòng làm việc của tôi ở Hà nội và may mắn được chụp ảnh lưu lại, và khi họp có ghi lại chi tiết hơn để thực hiện. Tôi được giao làm “tư lệnh” chiến dịch tự chủ này. Phương châm là lôi kéo mạnh mẽ phương tiện truyền thông vào cuộc; với quan điểm là không vi phạm các bộ luật do Quốc hội quy định, chỉ mong muốn thí điểm làm khác một số quy định dưới luật; còn về quan hệ, một mặt tranh thủ ủng hộ của các VIP, còn nếu như cần phê phán thì chỉ phê phán các quy định không còn phù hợp, tuyệt đối không chỉ trích bất cứ một cá nhân nào. 
Bảng làm việc 9/2006. Góc dưới bên trái là Chương trình 6 bước
Sau khi cùng các đồng nghiệp nhanh chóng thực hiện xong 2 bước đầu, ngày 25/9/2006, ĐH FPT chính thức gửi công văn cho Bộ GD-ĐT và Thủ tướng xin được thử nghiệm tự chủ, đồng thời cũng mời các báo chí tham gia họp báo công bố phương án tuyển sinh của ĐH FPT. 
Ngày 4/10/2006 – trước khi họp báo một ngày - chúng tôi nhận được công văn phản hồi của Bộ GD-ĐT, với nội dung như dự kiến, tức là yêu cầu ĐH FPT làm đầy đủ các thủ tục theo đúng quy định, gồm việc mở ngành, xin chỉ tiêu, trình phương án tuyển sinh để phê duyệt – là những việc mà chúng tôi đang không định làm. 
Cuộc họp báo ngày hôm sau - 5/10/2006 - vẫn tiến hành, có tôi trong tư cách hiệu trưởng, Nguyễn Xuân Phong trong vai phụ trách tuyển sinh, và Hoàng Minh Châu - Phó Tổng giám đốc FPT, chuyên gia về xử lý quan hệ công chúng - chủ trì. Tất cả các báo và đài truyền hình lớn đều được mời. Việc FPT thành lập một trường đại học năm 2006 đã là thông tin gây sốc, đã từng bị đánh giá là “đem sự học của dân Việt ra làm trò đùa” – thì thông tin họp báo còn gây sốc hơn khi tôi công bố học phí sẽ phá vỡ khung học phí bao cấp truyền thống, sẽ là khoảng 1000USD/học kỳ cao gấp 20 lần các trường khác - cùng chính sách học bổng cho sinh viên giỏi, tín dụng cho sinh viên nghèo, tuyên bố sẽ học tiếng Anh năm đầu tiên, tuyên bố một năm sẽ học 3 học kỳ, tuyên bố về 5 khối kiến thức kỹ năng sẽ dạy cho sinh viên, tuyên bố “là trường tư nhưng mà tốt” với cam kết chất lượng cao… Cuối buổi họp chúng tôi tiết lộ là sẽ hoạt động tự chủ, đã xin ý kiến các bộ ngành, riêng Bộ GD-ĐT thì hiện chưa hoàn toàn đồng tình, trường sẽ thuyết phục thêm, có thể có chút trục trặc về tiến độ tuyển sinh nhưng chắc không có thay đổi lớn. 
Trong ngày và các ngày sau đó, các báo và đài truyền hình đưa thông tin về phương án tuyển sinh của ĐH FPT, và chủ yếu tập trung vào việc ĐH FPT tuyển sinh như thế nào, bỏ qua thông tin về Bộ GD-ĐT chưa đồng ý. 
Ngay sau đó, ngày 9/10/2006 Bộ GD-ĐT gửi văn bản chỉ đạo: đã nói là cần làm theo đúng quy trình – lại còn họp báo công bố linh tinh - và nhắc lại một lần nữa yêu cầu ĐH FPT tuân thủ đầy đủ các quy định hiện hành. Thông tin này ngay lập tức được đưa lên báo chí: “Bộ GD-ĐT không đồng ý cho ĐH FPT tuyển sinh”, “Bộ không đồng ý cho ĐH FPT tự chủ”, “ĐH FPT vượt rào…”, chính thức mở đầu cho một cuộc chiến truyền thông kéo dài gần hai tháng và còn âm ỷ nhiều tháng sau. 
Gần hai tháng sau đó, ngày nào cũng có hàng chục bài báo viết về vấn đề này, khai thác theo 2 hướng: hướng “Giáo dục đại học - tự chủ hay không tự chủ”, có nên “khoán 10” trong giáo dục đại học hay không, và hướng bám theo tình hình “ĐH FPT nói gì - Bộ nói gì, ai lùi ai tiến”. ĐH FPT thì một mặt nói cứng: không được tự chủ thì kiên quyết không tuyển sinh, một mặt lại mềm mỏng, nói rằng việc thống nhất với Bộ GD-ĐT sắp xong rồi, Bộ và ĐH FPT đều theo đuổi mục tiêu chung là đào tạo đại học chất lượng cao, những gì vướng mắc chỉ là chuyện nhỏ. Có hôm báo chí đưa tin: “ĐH FPT tuyển sinh: tiến một bước”, hôm sau báo khác giật tít: “Tiến 0 bước”. 
Trên diễn đàn Quốc hội, Bộ trưởng GD-ĐT đăng đàn trả lời chất vấn của đại biểu “vì sao không cho ĐH FPT tự chủ”. Quan điểm của Bộ trưởng là tự chủ thì Bộ ủng hộ, nhưng ĐH FPT chưa thuyết minh được việc có đủ nguồn lực: giảng viên, chương trình, cơ sở vật chất – thì tự chủ cái gì… 
Đầu tháng 11/2006, ĐH FPT gỡ bế tắc bằng việc trong một tuần soạn xong Đề án Thí điểm tự chủ dày 2000 trang, gồm Cương lĩnh hoạt động, Mô hình Tài chính sinh viên, Quy trình đào tạo, Khung các chương trình đào tạo theo chuẩn ACM, Tiêu chuẩn chất lượng ABET, Phương án tuyển sinh tự chủ, Cơ sở vật chất, Đội ngũ cán bộ giảng viên. Ngày 10/11/2006, chúng tôi gửi đề án nặng 5kg này cho Bộ và Chính phủ kèm theo công văn đề nghị cho ĐH FPT thí điểm tự chủ trong 3 việc: chương trình, chỉ tiêu và phương thức tuyển sinh. Thông tin về đề án tự chủ 2000 trang lại nổi bật trên mặt báo. Bộ trả lời báo chí là đang xem xét và sẽ quyết định sớm. 
Ngày 14/11/2006, báo chí dẫn nguồn tin của Bộ cho biết Bộ sẽ trả lời vào ngày 15/11. Đầu giờ sáng ngày 15/11/2006, tôi đang trực tại FPT thì Vụ Giáo dục Đại học gọi mời lên Bộ làm việc, nói rằng 3 tháng trước đây ĐH FPT đã từng gửi hồ sơ dự thảo mở ngành, giờ chỉ cần tôi ký và đóng dấu vào hồ sơ này, Bộ sẽ ký quyết định mở ngành và giao chỉ tiêu cho trường luôn. Đúng là 3 tháng trước đó, khi còn chưa có giấy phép thành lập chúng tôi đã chuẩn bị cho các bước đi tiếp theo bằng cách dự thảo một bộ hồ sơ mở ngành gửi Bộ xem xét trước. Tôi cám ơn và nói là cần về xin ý kiến Hội đồng Quản trị nhà trường, và ngay trong buổi sáng tôi báo lại với Bộ là ĐH FPT không ký đề nghị mở ngành, ĐH FPT mong muốn được thí điểm tự chủ, đề nghị Bộ xem xét. Đến trưa thì Bộ GD-ĐT nhắn cử người lên mà lấy văn bản đi, ký rồi đó. Đó là Quyết định số 6767 ngày 15/11/2006, giao nhiệm vụ cho ĐH FPT đào tạo ngành Kỹ thuật Phần mềm, và công văn số 13183 cũng ngày 15/11/2006 cấp cho ĐH FPT 500 chỉ tiêu tuyển sinh trong số các thí sinh đạt điểm sàn trở lên. Đầu giờ chiều, Dân trí đưa tin “theo một nguồn tin riêng, Bộ không đồng ý cho ĐH FPT tự chủ”, tin này tồn tại được 30 phút thì bị gỡ xuống. Cuối giờ chiều ngày 15/11/2006, các báo đồng loạt đưa tin “ĐH FPT được tự chủ”. 
Bộ trưởng GD-ĐT nhắn tin cho tôi: “Cám ơn các cậu đã khuấy vấn đề này lên”. Tôi sang phòng làm việc của anh Trương Gia Bình: “báo cáo anh là xong việc nhé, tối em về nhà, về Sài gòn”. 
*** 
Thời báo Kinh tế Việt nam (Vietnam Economic Times) tháng 12/2006 viết: “Cuộc chiến dai dẳng cuối cùng cũng kết thúc, với sự nhượng bộ thuộc về cơ quan quản lý nhà nước. ĐH FPT cuối cùng cũng được phép tuyển sinh khóa đầu tiên – chậm hai tháng so với dự kiến. Lần đầu tiên một trường đại học đã công khai sử dụng thành công các phương tiện thông tin đại chúng để đấu tranh đạt được mục tiêu của mình”. 
Chỉ gần hai tháng đã có khoảng 200 bài báo viết về sự kiện này. Sự kiện ĐH FPT đòi tự chủ được hàng loạt các báo chí và tổ chức bình chọn là sự kiện tiêu biểu năm 2006. 
1. Đại học FPT - 1 trong 8 sự kiện giáo dục 2006 do VietNamNet bình chọn 
 2. Đại học FPT - 1 trong 8 sự kiện CNTT Việt Nam 2006 do VNExpress bình chọn 
 3. Đại học FPT - 1 trong 10 sự kiện 2006 do Dân Trí bình chọn
 4. Đại học FPT - 1 trong 9 tiêu điểm của ngành giáo dục năm 2006 do báo Thanh Niên bình chọn
 5. Đại học FPT - 1 trong 10 sự kiện CNTT - TT năm 2006 do PC World VN bình chọn 
 6. Đại học FPT - 1 trong 10 sự kiện khoa học, công nghệ và đời sống 2006. do Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, báo Khoa học và Đời sống tổ chức. 
 7. Đại học FPT - 1 trong 10 sự kiện tiêu biểu do Đài Tiếng nói Việt nam bình chọn 
 8. Đại học FPT - 1 trong 20 sự kiện được CLB phòng viên và Đài truyền hình VN đưa ra để bình chọn Top sự kiện 2006 
*** 
Chúng tôi biết rằng với ngôi trường ĐH FPT vừa thành lập có cả một núi công việc phải làm. Làm thế nào để tuyển sinh, để tổ chức đào tạo, làm thế nào để phát triển cán bộ giảng viên, xây dựng thương hiệu và xây dựng cơ sở vật chất? Những gì tranh cãi sớm muộn cũng chấm dứt và bất luận thắng thua, mọi khó khăn vẫn ở phía trước. Khởi đầu bằng việc nói nhiều thì sẽ phải làm nhiều hơn để chứng minh những gì mình nói. 
Tuy nhiên chúng tôi tự tin vào cuộc, với tư duy đơn giản: trong bối cảnh giáo dục đại học Việt nam có mặt bằng chất lượng thấp hiện nay, dựng lên một trường đại học tốt không quá khó, cái khó là việc làm sao để có mặt trên sân chơi giáo dục đại học toàn cầu… 
Cũng may, 10 năm - những gì đã nói đều đã và đang trở thành hiện thực... 
8/9/2006 - 8/9/2016
--
(10 NĂM CHÁY BỎNG KHÁT VỌNG ĐỔI THAY, # 2)
WTO và Dịch vụ giáo dục
Tháng 11 năm 2006, Việt nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có bài viết “Gia nhập WTO, thách thức và hành động của chúng ta” nhân sự kiện này. Liên quan đến giáo dục đào tạo, ông viết: “Hạn chế này là do những yếu kém, bất cập trong hệ thống giáo dục của ta, cần phải nhanh chóng tìm ra các giải pháp để khắc phục. Hướng chính ở đây là chấp nhận cơ chế thị trường trong đào tạo đại học thuộc các ngành kỹ thuật - công nghệ và dạy nghề để huy động các nguồn lực nhằm phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo”. 
Trong bối cảnh Luật Giáo dục Việt nam 1998 ghi là “cấm mọi hành vi thương mại hóa giáo dục”, còn trong Luật Giáo dục 2005 vẫn cài cắm câu “cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi”, thì quan điểm của Thủ tướng “chấp nhận cơ chế thị trường” là rất cởi mở. Cũng phải nói thêm WTO quy định 12 lĩnh vực dịch vụ, trong đó giáo dục đào tạo là lĩnh vực dịch vụ thứ 5, các nước tham gia có thể cam kết mở cửa cho giáo dục hoặc không, và nếu cam kết thì cũng có thể chỉ cần cam kết với mức độ vừa phải. 
Chỉ có 40/140 nước thành viên WTO có cam kết mở cửa dịch vụ giáo dục, và trong số này chỉ hơn 20 nước mở cửa cho giáo dục đại học mà thôi. Lực lượng sinh viên “trẻ trâu” giàu năng lượng, thích cái mới, dễ bị kích động, nhiều sự kiện chính trị xã hội gắn với phong trào sinh viên, ai nắm được sinh viên sẽ dễ chi phối chính trường, cho nên với lý do bảo hộ nội địa, đa số các quốc gia từ chối mở cửa cho giáo dục đại học. Việt nam chấp nhận mở cửa cho các ngành kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ và luật quốc tế, và theo lộ trình, từ 2009 cho phép đầu tư đại học 100% vốn nước ngoài. Trong khối Asean, đây là chính sách gần như là cởi mở nhất. Các nước khác như Malaysia chỉ chấp nhận nước ngoài liên doanh tối đa 30%, Thái lan chỉ chấp nhận nước ngoài liên doanh tối đa 49%, Lào chỉ chấp nhận nước ngoài liên doanh tối đa 51% và hiệu trưởng phải là người Lào, các nước như Singapore, Philippines, Indonesia, Myanmar, Brunei… thì không cam kết gì hết. 
Cũng nói luôn quan điểm - chủ trương - đường lối thì rất tốt, nhưng khi thực thi thì quá nhiều rào cản, cho nên sau 10 năm, đến 2016 - tỷ trọng sinh viên trường tư vẫn loanh quanh con số 13%, còn lại 87% sinh viên Việt nam là sinh viên trường công không khác gì 10-15 năm trước. Về số lượng thì chỉ là thiểu số, xấu tốt của giáo dục đại học Việt nam do 87% sinh viên trường công quyết định, nhưng phân khúc ngoài công lập lại đang là nơi để “đổ thừa” cho mọi khiếm khuyết của giáo dục đại học nước nhà. 
Về đại học nước ngoài, nếu không kể trường RMIT đã thành lập từ những năm 90 theo cam kết riêng giữa 2 chính phủ Việt nam và Australia, trong 10 năm 2006-2016, chỉ có duy nhất 1 trường 100% vốn nước ngoài mở ở Việt nam (trường Đại học Anh quốc), và trong tháng 5/2016 này thêm trường 100% vốn nước ngoài thứ 2 là Đại học Fulbright (Mỹ) sẽ được trao giấy phép thành lập. Một số đối tác sang Việt nam đầu tư – chất lượng cao hẳn hoi (như Raffle College - Singapore) - nhưng cũng chỉ vì không thể hoàn tất thủ tục hoạt động nên bị đóng cửa gây ra bao hệ lụy. 
Nhận quyết định thành lập
Đầu năm 2006, chỉ sau hơn 2 tháng Luật Giáo dục 2005 có hiệu lực, FPT nhận Quyết định đồng ý về chủ trương thành lập Đại học FPT tại Hà nội do Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm ký. Theo quy định của Việt nam, thành lập trường trung cấp thực hiện ở địa phương, thành lập trưởng cao đẳng ở Bộ, còn thành lập đại học thì do Thủ tướng quyết định. Để đưa được hồ sơ lên Văn phòng Chính phủ thì phải qua các cửa Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Nội vụ và UBND thành phố. Không kể những trục trặc nho nhỏ như việc đặt tên trường, phương án của FPT là “Trường Đại học FPT”, sau phải sửa thành “Trường Đại học Tư thục Công nghệ Thông tin FPT”, tức trong tên trường phải ghi loại hình trường và lĩnh vực hoạt động. Sau này thì chính phủ bỏ việc ghi loại hình trường nên không còn chữ “tư thục”, và khi ra hội đồng xét duyệt thì được góp ý “nói đến FPT thì biết là Công nghệ Thông tin rồi”, nên bỏ nốt chữ Công nghệ Thông tin, trở lại tên “Trường Đại học FPT” như phương án ban đầu. Khó khăn lớn nhất là phải “vô hiệu hóa” một văn bản trước đó của Thủ tướng nhiệm kỳ trước về việc “tạm ngừng mở trường đại học tại Hà nội và tp HCM”, bổ sung được chủ trương thành lập đại học thuộc các tập đoàn kinh tế và đưa tên Đại học FPT vào quy hoạch mạng lưới trường đại học, vì theo quy định việc thành lập đại học phải “phù hợp quy hoạch” do chính phủ ký, và đưa được nội dung đầu tư đào tạo đại học vào Khu Công nghệ cao Hoà lạc trong bối cảnh dự án Đại học Quốc gia ngay cạnh đấy trì trệ hàng chục năm nay. 
Nhóm làm dự án đại học FPT do tôi làm thường trực, anh Trương Gia Bình làm “tư lệnh”, Nguyễn Khắc Thành hỗ trợ, cùng 3 em thư ký của FPT, sau bổ sung thêm Nguyễn Kim Ánh từ Bộ KHCN, Nguyễn Xuân Phong từ Aptech. 
Vất vả chết đi được. Cuối năm 2015, gặp gỡ nhóm dự án, chuyện trò mà rơi nước mắt.
“Anh ạ, hồi đó ông chuyên viên ấy mời đi café rồi mới chịu xử lý hồ sơ. Em chẳng biết làm thế nào... 
Báo với sếp thì sếp nói em phải tự biết cách xử lý chứ... 
Thật là khốn khổ, làm sao để vừa được việc của trường, lại vừa giữ được phẩm giá của mình..
Sau này kể lại với nhà em, anh ấy không tin… 
Rồi hai vợ chồng lục đục... 
Rồi chúng em chia tay nhau…”
Ngày 8 tháng 9 năm 2006, Trường ĐH FPT nhận quyết định thành lập. Chỉ 6 tháng từ thời điểm được đồng ý về mặt chủ trương đến khi có quyết định chính thức – là một khoảng thời gia ngắn kỷ lục. Trường ĐH Fulbright sắp nhận quyết định thành lập trong tháng 5/2016 nhân dịp Tổng thống Obama sang Việt nam, phải mất 2 năm từ khi nhận văn bản đồng ý về chủ trương (2014). 
Làm gì?
Tháng 9 cũng là tháng mở đầu một năm học mới. Thời điểm này mùa tuyển sinh 2006 đã khép lại. Dạy gì, dạy thế nào, làm thế nào để tuyển sinh ngay trong 2006 mà không phải chờ đến mùa tuyển sinh 2007, và làm thế nào mà dù chưa khai giảng, ĐH FPT được hàng loạt báo chí và tổ chức bình chọn là một trong 10 sự kiện giáo dục, khoa học công nghệ năm 2006? 
Lê Trường Tùng
--
BỐI CẢNH ĐH FPT RA ĐỜI

Le Truong Tung
(10 năm cháy bỏng Khát vọng Đổi thay #1)
Với giáo dục đại học Việt nam, các năm 2005 - 2006 là thời điểm rất đặc biệt. 
Tình hình FPT
Ý tưởng thành lập trường ĐH FPT được tôi nêu ra ở Hội nghị Chiến lược FPT tại Quảng ninh, 2003. 
Trích Sử ký FPT Education: “…Ý tưởng thành lập trường ĐH FPT được đưa ra ở Hội nghị Chiến lược FPT năm 2003 tổ chức tại Hạ long. Phiên họp cuối cùng của Hội nghị chiến lược này yêu cầu mỗi đơn vị phải đề xuất một hướng mới - để đến năm 2008 FPT có thể đạt tổng doanh thu 1 tỷ USD. Liên quan đến đào tạo có 2 đề xuất: thành lập FPT University (FU) như một trường đại học tư thực thụ - do tôi đưa ra, và FPT University như một Corporate University (CU) - một tổ chức đào tạo nội bộ, do Alex Grigpryuk – giám đốc FPT Elearning Business đề xuất. Các thông tin lịch sử này được ghi nhận trong tường thuật phiên họp do Phan Phương Đạt - Phó Tổng giám đốc FPT Software ghi lại: “Sau các số 3 chữ số của FIS, FOX và FDC, loại “teen” như FSS ($10M), FSOFT ($15M) và FAT ($7M) hoàn toàn không gây được chú ý. TrieuDD vẫn trung thành với các hướng kinh doanh của FSS, có chăng thêm mảng Bảo hiểm, Y tế và Xây dựng cơ bản. FSOFT đặt cửa vào Nhật bản, FAT có ý định sản xuất giáo trình “made by FPT” và lập Đại học… Chốt hạ là Alex Grigoryuk, giám đốc FEB. Vì anh không nói tiếng Việt, lại không dùng mic, nên phần lớn hội trường không hiểu anh nói gì. Tuy nhiên, nhìn bộ slide đẹp được làm rất công phu, cũng như điệu bộ của anh, có thể đoán anh nói rất thuyết phục. Sau này mới biết anh trình bày ý đồ thành lập CU (Corporate (Cyber) University) và được anh Bình đồng ý ngay lập tức. Chỉ có điều không rõ trường ảo của anh và trường thực của anh Tùng sẽ hoạt động với nhau như thế nào. Cùng tham dự hội nghị này Thang Đức Thắng – tổng biên tập VNExpress - nói với tôi trong các hướng đề xuất thì sáng kiến về đại học là sáng giá nhất”. https://www.facebook.com/sukyfe/posts/358903884277739?hc_location=ufi
Năm 2003 là thời kỳ các trung tâm Lập trình viên quốc tế Aptech hoạt động được 4 năm (từ 1999), đã triển khai được mạng lưới các trung tâm Aptech theo mô hình nhượng quyền tại Đà nẵng, Huế, Cần thơ, Hà nội, tp HCM. Tốc độ tăng trưởng bắt đầu chậm lại, mở đường cho Trung tâm Đào tạo Mỹ thuật Đa Phương tiện Arena ra đời năm 2004 và bước tiếp theo là tham gia giáo dục đại học. Tháng 3 năm 2004, tôi đặt ra mục tiêu xây dựng ĐH FPT và sau 5 năm đưa ĐH FPT vào Top 10 các trường ĐH Việt nam (báo Chúng ta số 266, 3/2004). https://www.facebook.com/groups/fpteducation/permalink/1285592101468886/
Các năm 2002-2006 là thời điểm FPT cổ phần hóa và chuẩn bị lên sàn giao dịch. Năm 2006 FPT lên sàn giao dịch chứng khoán và đóng góp 17 người trong danh sách 100 người giàu nhất Việt nam theo giá trị cổ phiếu. Ai cũng háo hức, hứng khởi, nghĩ việc gì cũng trong tầm tay. http://vnexpress.net/customize/chung-khoan/top/2006/top100/
Tình hình trong nước
Sau 1975 thống nhất đất nước, các trường đại học tư từng có ở miền Nam bị đóng cửa, và toàn bộ hệ thống giáo dục đại học Việt nam trở thành đại học công. Năm 1993, cùng với trào lưu xây dựng nền kinh tế đa thành phần mở đường cho doanh nghiệp tư nhân ra đời với Luật Doanh nghiệp Tư nhân 1990, các trường đại học tư cũng được thành lập theo loại hình dân lập, và thời điểm 2005, chỉ có đại học công lập, đại học bán công và đại học dân lập. Theo văn bản quy định, đại học dân lập được xã hội đầu tư bằng tiền ngoài ngân sách, và tài sản của trường “thuộc quyền sở hữu tập thể của những người góp vốn đầu tư, các giảng viên, cán bộ và nhân viên nhà trường”, “là tài sản không chia thuộc sở hữu tập thể nhà trường, được Nhà nước bảo vệ theo quy định của pháp luật, không ai được chiếm đoạt” – thực chất đây chính là loại hình đại học hoạt động không vì lợi nhuận, phần góp của được nhà nước là giấy phép và cho đất, tài chính thì cổ đông góp một chút, còn lại thì thu học phí, hoạt động theo cơ chế “lấy mỡ nó rán nó”, phần dư không được chia và để lại xây dựng trường. 
Năm 2005-2006 được đánh dấu bởi các thay đổi rất lớn với giáo dục đại học, gồm Luật Giáo dục 2005, Nghị quyết 14/2005 về Đổi mới cơ bản toàn diện giáo dục đại học và Quy chế Đại học tư thục 2005. 
Luật Giáo dục 2005 được Quốc hội thông qua tháng 6/2005 và có hiệu lực từ tháng 1/2006, sửa đổi Luật Giáo dục 1998, lần đầu tiên đã hợp thức hóa loại hình đại học tư thục và bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư: trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước (điều 48); thu nhập của trường tư thục được dùng để chi cho các hoạt động cần thiết của nhà trường, thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước, thiết lập quỹ đầu tư phát triển và các quỹ khác của nhà trường, thu nhập còn lại được phân chia cho các thành viên góp vốn theo tỷ lệ vốn góp (điều 66), và cơ sở giáo dục tư thục được quyền chủ động xây dựng mức thu học phí, lệ phí tuyển sinh (điều 105). 
Chiến lược phát triển giáo dục đại học Việt nam cũng được chính phủ thông qua bằng Nghị quyết 14/2005/NQ-CP tháng 11/2015 về Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020. Đến ngày nay (2016) - đây có lẽ vẫn là Nghị quyết hay nhất về phát triển giáo dục đại học, tiếc rằng nhiều điều trong nghị quyết chưa được thực hiện. Trong nghị quyết nêu rõ trong 15 năm sẽ phải tăng số sinh viên đại học lên gấp đôi để đạt mức trung bình thế giới, tỷ trọng sinh viên trường tư sẽ từ 10% tăng lên 40%. Sẽ khuyến khích mở cơ sở giáo dục đại học trong các tập đoàn, các doanh nghiệp lớn, chuyển các cơ sở giáo dục đại học công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ và xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, sẽ đổi mới cơ chế giao chỉ tiêu tuyển sinh, tăng quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học, đổi mới phương pháp đào tạo theo các tiêu chí phát huy tính chủ động của người học; sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, khai thác các nguồn tư liệu giáo dục mở và nguồn tư liệu trên mạng , lựa chọn, sử dụng các chương trình, giáo trình tiên tiến của các nước. 
Cũng trong năm 2005, Quy chế đại học tư thục được ban hành theo Quyết định 14/2005/QĐ-TTg tháng 10/2005 tạo hành lang pháp lý cụ thể cho các trường tư hoạt động. Phần tài sản được quy định rõ “Toàn bộ tài sản của trường thuộc sở hữu của các nhà đầu tư; được Nhà nước bảo vệ theo quy định của pháp luật” (điều 35) và “Tổng thu nhập sau khi đã trừ các khoản chi phí cần thiết cho hoạt động của nhà trường, số còn lại được sử dụng như sau: thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước; trích lập quỹ đầu tư phát triển nhà trường và các quỹ khác, thu nhập còn lại được phân chia cho các thành viên góp vốn theo tỷ lệ vốn góp” (điều 36). 
Luật đã có, các văn bản dưới luật được ban hành trước cả khi luật đến thời hạn thực hiện. Những gì FPT nung nấu liên quan đến thành lập đại học tư từ cuối năm 2003, trong năm 2004 và thực hiện trong năm 2005 “đùng một cái” được hàng loạt các văn bản quan trọng hỗ trợ. 
Tình hình thế giới
Giáo dục đại học thế giới đầu thế kỷ 21 đứng trước các thay đổi lớn. Thay đổi thứ nhất là khi ra đời trong lòng xã hội công nghiệp, đào tạo nhân lực cho xã hội công nghiệp, đại học đối mặt với thách thức lớn với dịch chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội kinh tế tri thức – dịch vụ, từ việc chỉ cần một phần trăm nhỏ số người có bằng cấp đại học, với việc học một lần, dùng kiến thức cả đời – đến việc đa số người lao động cần có trình độ sau phổ thông và tri thức, kỹ năng thay đổi nhanh chóng, học một lần không bao giờ đủ. Thay đổi thứ nhất kéo theo thay đổi thứ hai, là đại học chuyển từ tinh hoa - đào tạo số ít – sang đào tạo đại chúng, ai cũng có thể vào đại học và nhu cầu học đại học tăng vọt. Thay đổi thứ ba là đại học từ thượng tầng kiến trúc chuyển thành hạ tầng xã hội, với chức năng đào tạo nhân lực để đáp ứng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh toàn cầu. Thay đổi thứ tư là xu hướng hội nhập quốc tế của giáo dục đại học, hợp tác toàn cầu, làm việc mọi nơi, du học xuyên biên giới, và thay đổi thứ năm là CNTT sẽ làm thay đổi mô hình hoạt động của các trường đại học. 
Năm thay đổi này là thách thức với ĐH FPT, và cũng là thuận lợi lớn, vì khi đi theo xu thế này sẽ nhanh chóng đưa đại học FPT non trẻ lên tầm cao mới vượt trội các trường đại học truyền thống với sức ỳ cố hữu. 
Năm 2006 cũng là năm Việt nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại Thế giới, chính thức thừa nhận giáo dục đại học với các ngành kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ và luật là một loại hình dịch vụ. Chúng tôi nhận định: đây là thời cơ xây dựng một trường đại học theo mô hình mới, và để đạt được chất lượng ở mức trung bình các trường đại học đang có ở Việt nam thì quá dễ dàng. Giáo sư Nguyễn Văn Đạo nhắn gửi: ĐH FPT không thể là trường đại học thứ 41, tức là không phải thành lập để trở thành trường đại học làng nhàng xếp vào danh sách nối dài của 40 trường đang có. 
Lê Trường Tùng

Giản Tư Trung - Thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng sự học

Đem câu hỏi lớn này đến trò chuyện cùngnhà giáo dục Giản Tư Trung, ông chia sẻ một cách chân thành:"Nhìn qua, mọi người có thể thấy tôi tham gia nhiều tổ chức, làm nhiều việc, nhưng thực chất tôi chỉ làm một nghề, một việc thôi, đó là, gắn bó với sự học khai phóng, chỉ là tôi làm việc này với các đối tượng, với các cộng đồng khác nhau ở các tổ chức, dự án khác nhau. Tôi nghĩ, một đời người có thể làm nhiều việc, nhưng để có thể làm thật tốt thì ta cần phải tập trung cho một việc trong một thời gian đủ dài. Và với tôi, gắn bó với sự học khai phóng chính là công việc đời người mà tôi lựa chọn."

Nhà hoạt động giáo dục Giản Tư Trung: Người miệt mài thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng cách mạng sự học - Ảnh 1.

Xin ông nói rõ hơn về khái niệm khai phóng và giáo dục khai phóng?

- Từ khai phóng trong tiếng Việt gần với sự khai sáng. Khai phóng có thể hiểu là: Khai minh và giải phóng. Khai là mở và minh là sáng. Con người sinh ra vốn dĩ tăm tối, nên cần được đưa ánh sáng vào để làm cho mình sáng ra. Ánh sáng đó chính là chân lý, tự do và sự thật. Nếu con người không được khai minh thì sẽ tối bền vững. Ngược lại, khi được khai minh, con người sẽ nâng cao khả năng minh định của mình, khi đó sẽ minh định được ai là ai, cái gì là cái gì và mình là ai; minh định được đúng-sai, phải-trái, chân-giả, thiện-ác, chính-tà trong cuộc sống và trong thế giới của mình. Còn giải phóng là hệ quả tất yếu của khai minh, vì chẳng có ai được khai minh mà lại không giải phóng mình ra khỏi vô minh, giáo điều, ấu trĩ, tăm tối, ngộ nhận và lệch lạc…

Nghĩa thứ hai của khai phóng là khai mở tâm trí và giải phóng tiềm năng của mình. Khai mở tâm trí để có một cái đầu sáng nhằm có thể minh định được con đường đúng cùng một trái tim nóng để thôi thúc hành động. Khi tâm trí khai mở, việc phát huy hết tiềm năng để thăng hoa trong công việc và cuộc sống là điều hiển nhiên.

Nhìn ở những góc độ như thế này, ta có thể thấy, sự học khai phóng là cần thiết cho tất cả mọi người, mọi độ tuổi, mọi ngành nghề, và mọi xã hội, nhất là trong thời đại ngày nay.

Lâu nay mọi người vẫn nói: "Giáo dục hư học nhiều quá"; thế nhưng, cho dù giáo dục đã có thực học đi chăng nữa mà chỉ tập trung vào chuyên môn nghề nghiệp thì thật ra vẫn chưa đủ. Bởi lẽ, còn tồn tại một thứ giáo dục quan trọng hơn cả "giáo dục nghề nghiệp", đó là "giáo dục khai phóng".

Có thể nói, nếu như giáo dục chuyên môn giúp người ta có nghề thì giáo dục khai phóng giúp người ta có tầm. Do vậy, ta không chỉ học để có bằng và có nghề mà còn học để có tầm; không chỉ học để làm nghề, mà còn học để làm người. Nếu như giáo dục phổ thông giúp ta có nền tảng văn hóa thì giáo dục đại học giúp ta có tầm vóc văn hóa. Nói cách khác, nếu chỉ học đối phó thì có khi chỉ có bằng mà không có nghề, còn nếu thực học chỉ tập trung vào chuyên môn thì có thể trở thành người giỏi, nhưng không thể trở thành người lớn. Bởi lẽ, chỉ có giáo dục khai khóng, sự học khai phóng mới có thể giúp con người xây dựng tầm vóc văn hóa để trở thành "người lớn", trở thành con người tự do.

Và nền tảng, tầm vóc văn hóa này được định hình bởi nhân tính, quốc tính và cá tính của chính mình. Nói rõ hơn, nhân tính, quốc tính và cá tính là đặc tính của con người tự do và con người tự do là đích đến của giáo dục khai phóng. Đó cũng chính là triết lý giáo dục mà tôi thường chia sẻ.

Nhà hoạt động giáo dục Giản Tư Trung: Người miệt mài thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng cách mạng sự học - Ảnh 3.

Có vẻ như ngày nay có nhiều người hiểu "tự do" theo nghĩa là muốn làm gì thì làm, ông nghĩ sao?

- Đúng vậy, ngày nay có không ít bạn trẻ ngộ nhận về khái niệm con người tự do. Tự do không phải là muốn làm gì thì làm. Con người tự do thì khác với con người hoang dã, con người nô lệ, con người công cụ, con người phận vị, con người nổi loạn... Con người tự do là con người biết sống theo cách của mình, nhưng có tự trọng và biết tôn trọng. Tự trọng tức là coi trọng lương tri và phẩm giá của mình, luôn cố gắng không làm gì trái với lương tri và phẩm giá. Còn tôn trọng ở đây có nghĩa là tự do của mình không phương hại đến tự do của người khác, và nếu vượt qua giới hạn này thì sẽ rất dễ trở thành con người hoang dã.

Ngày nay, không chỉ có sự ngộ nhận giữa tự do và hoang dã, mà còn có sự ngộ nhận giữa đức tin và mê tín, giữa cá tính và quái tính, giữa chân thật và trơ trẽn, giữa mạo hiểm và liều mạng, giữa tự trọng và sĩ diện, giữa "hãy là chính mình" và "tôi là trên hết"… Nền tảng của tự do hay cá tính hay đức tin chính là khai minh và cách duy nhất để thoát khỏi sự ngộ nhận này là khai phóng bản thân. Chỉ có sự học khai phóng và khai phóng bản thân thì mới có thể có tự do, có đức tin, có cá tính, có chính mình một cách đúng nghĩa.

Nhà hoạt động giáo dục Giản Tư Trung: Người miệt mài thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng cách mạng sự học - Ảnh 4.

Có thể thấy ông hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực, làm rất nhiều nghề, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục và doanh trí. Ông đã tạo ra những giá trị nổi bật nào?

- Nhiều người hay hỏi, mấy chục năm tôi gắn bó với sự học của các doanh nhân như vậy, chắc hẳn tôi đã thay đổi nhiều vạn doanh nhân trên khắp cả nước? Tôi thường trả lời, tôi chưa thay đổi bất cứ doanh nhân nào. Người duy nhất mà tôi có thể thay đổi là chính tôi. Bởi lẽ không ai có thể thay đổi một người, ngoại trừ chính họ.

Nhà hoạt động giáo dục Giản Tư Trung: Người miệt mài thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng cách mạng sự học - Ảnh 5.

Nhưng tôi đã làm được một công việc rất bền bỉ với rất nhiều cộng đồng và độ tuổi khác nhau, trong nhiều năm. Đó là đồng hành với sự học khai phóng của doanh giới, của giáo giới, của giới trẻ, của cộng đồng, tùy theo dự án.

Chẳng hạn như, Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh tập trung vào những vấn đề văn hóa nền tảng chung của xã hội, Trường Doanh nhân PACE đồng hành cùng sự học của doanh giới, còn Viện Giáo dục IRED đồng hành cùng sự học của giáo giới, của phụ huynh và học sinh…

Ngoài ra,mọi người còn có thể thấycông việc của tôi qua việc khai lập và điều hành Học bổng Lãnh đạo Khai phóng IPL, Dự án Khuyến đọc Sách Hay, Giải thưởng Sách Haythường niên, Chương trình Sách cho trại giam, Chương trìnhKhai phóng TopSkills (dành cho sinh viên), Chương trình Khai phóng PLEMS (dành cho học sinh),Chương trình Khai phóng Teacher Mindset (dành cho giáo viên), Chương trình Khai phóng Parent Mindset (dành cho phụ huynh), cũng như hàng loạt tủ sách thiết yếu như Tủ sách Doanh trí, Tủ sách Giáo dục và Tủ sách Khai phóng. Gần đây là đồng khởi xướng Giai đoạn II củaDự án Tủ sách Tinh hoa Thế giới (kế tục công việc của Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh và NXB Tri Thức).

Và mới đây nhất, chúng tôi ra mắt Bộ sách "Lịch sử văn minh thế giới" của Will Durant, đây là công trình dịch thuật đồ sộ bậc nhất Việt Nam từ trước tới nay, do Viện IRED thực hiện (gần 50 tập sách).

Song song đó là khởi xướng Trường Khai phóng Trực tuyến OpenEdu hoàn toàn miễn phí bằng tiếng Việt có bản quyền với kho tri thức và bài giảng phong phú, có tính khai phóng cao để tiếp sức cho hành trình "Tự lực khai phóng" của mỗi người (được triển khai từ 2018).

Thế đấy, cuộc đời tôi đã trải qua nhiều ngành nghề, lĩnh vực, làm nhiều việc với các tổ chức, dự án khác nhau, nhưngcó thể tóm lại cho mình một con đường mà thôi, đó là con đường cách mạng sự học và gắn bó với giáo dục khai phóng. Và tôi xem đó là một hạnh phúc lớn của đời mình!

Nhà hoạt động giáo dục Giản Tư Trung: Người miệt mài thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng cách mạng sự học - Ảnh 6.

Vì sao ông chuyển cách tiếp cận từ cách mạng giáo dục sang cách mạng sự học?

- Ngày trước, tôi nghĩ thường đến chuyện làm cách mạng giáo dục, làm sao để chấn hưng, cải cách giáo dục… Tuy nhiên, sau nhiều năm tôi nhận ra rằng giải quyết vấn đề này chẳng khác nào khiến mình tự "đâm đầu vào đá". Cách mạng giáo dục là cuộc cách mạng của "toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta", nên nếu chỉ là một nhóm người thì cũng khó mà xoay chuyển được.

Từ đó, tôi bắt đầu thay đổi hướng đi và cách tiếp cận của mình. Đó là năm 2004. Tôi không còn quá bận tâm đến cách mạng giáo dục nữa, mà tập trung vào câu chuyện cách mạng sự học của mỗi người. Bởi lẽ, thay đổi thì không chỉ có một cách là từ trên xuống (Top-Down) mà còn là từ dưới lên (Bottom-Up), và cách mạng sự học là cuộc cách mạng "của tôi, do tôi và vì tôi", nghĩa là bất kỳ ai cũng có thể làm được. Để hoàn thành một cuộc cách mạng về giáo dục có khi phải mất 10-20 năm, thậm chí 30-50 năm. Nhưng để thực hiện cách mạng sự học thì có thể bắt đầu ngay bây giờ, không phụ thuộc vào bất cứ ai.

Từ cách mạng sự học sẽ dẫn đến cách mạng bản thân, từ cách mạng bản thân sẽ dẫn đến cách mạng tổ chức, và đó cũng là cội nguồn của mọi sự đổi thay của xã hội theo hướng tiến bộ hơn.

Nhà hoạt động giáo dục Giản Tư Trung: Người miệt mài thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng cách mạng sự học - Ảnh 7.

Tại Trường Doanh nhân PACE ("trường doanh nhân" đầu tiên trong lịch sử kinh thương Việt Nam), mỗi doanh nhân học viên đều chia sẻ tôn chỉ "Thực học vì doanh trí", hay nói đầy đủ hơn là "Tôi thực học vì doanh trí của tôi". Từ khi ra đời cho đến nay, 19 năm liên tục, không ngày nào chúng tôi không nghĩ về việc làm sao để giúp mỗi doanh nhân "nâng cao doanh trí bằng tri thức thế giới và giá trị thực học" và "cùng cộng đồng doanh nghiệp khai mở một nền quản trị mới tại Việt Nam", một nền quản trị hiệu quả và tiến bộ hơn.

Nhà hoạt động giáo dục Giản Tư Trung: Người miệt mài thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng cách mạng sự học - Ảnh 8.

Tại Viện Giáo dục IRED (một viện nghiên cứu giáo dục độc lập đầu tiên tại Việt Nam), chúng tôi giương cao ngọn cờ "Tự lực khai phóng", tự lực khai minh và giải phóng chính mình, tự lực khai mở tâm trí và giải phóng tiềm năng của mình, và đây cũng chính là cách tốt nhất để mỗi người đều có thể góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển của giáo dục khai phóng ở Việt Nam ta.

Việc chuyển hướng từ cách mạng giáo dục sang cách mạng sự học là bước ngoặt rất lớn. Nó giải thoát cho chính tôi. Suy cho cùng, giáo dục hay giảng dạy cũng chính là giúp người khác tự học.

Trong cuốn sách được đón nhận nồng nhiệt của mình "Đúng việc - Một góc nhìn về câu chuyện khai minh", ông cũng có nói về việc định nghĩa lại giáo dục. Xin ông nói rõ thêm?

 - Trong nhiều năm qua, công việc mà tôi làm nhiều nhất là góp phần định nghĩa lạigiáo dục, định nghĩa lại đại học, định nghĩa lại kinh doanh, định nghĩa lại quản trị, định nghĩa lại lãnh đạo, định nghĩa lại sự học, định nghĩa lại sự dạy…

Cuốn "Đúng việc" gợi mở việc cần định nghĩa lại mọi thứ, nỗ lực tìm về bản chất của mọi vấn đề, trả lại với chân giá trị của mọi chuyện. Đây cũng chính là hành trình khai minh của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi tổ chức, mỗi xứ sở.Tức là gợi mở để mọi người cùng thảo luận, bàn về những vấn đề căn cốt của nhân sinh và từ đó mỗi người sẽ tự tìm ra chân lý cho riêng mình, bởi lẽ không ai độc quyền chân lý.

Chính vì cách tiếp cận đó, nên khi "Đúng việc" đi vào xã hội, từ doanh nhân, nhà giáo, cho đến giới trẻ, và cả các vị lãnh đạo đều rất ủng hộ, cho rằng cách tiếp cận rất ổn, phù hợp, không giáo điều, không hô hào, rất thực chất. Bởi những gì không thực chất thì chắc chắn không sống được.

Lâu nay, người ta hay tranh cãi việc Việt Nam đã có triết lý giáo dục hay chưa. Riêng ông Giản Tư Trung khẳng định: Thực ra Việt Nam đã có triết lý giáo dục, vấn đề là triết lý giáo dục đó đã phù hợp chưa, có thuyết phục không. Điều mà ít người quan tâm, triết lý giáo dục không phải là độc quyền của nhà nước. Một nhà trường vẫn cần có triết lý giáo dục riêng của mình để đào tạo học sinh. Một gia đình có triết lý giáo dục để dạy con. Một công ty có triết lý giáo dục để đào tạo nhân viên. Một nhà nước phải có triết lý giáo dục để giáo dục công dân. Triết lý giáo dục là trả lời 3 câu hỏi: Thế nào là con người; Muốn tạo ra con người như thế nào? Và làm sao để tạo ra con người như thế?

Nhà hoạt động giáo dục Giản Tư Trung: Người miệt mài thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng cách mạng sự học - Ảnh 9.

Ông thường nhắc đến giá trị của "thực học", nhưng liệu "thực học" có thể chống lại thói quen bằng cấp của cả xã hội?

- Thời trước, người nào có tấm bằng đại học trong tay là cầm nắm một lợi thế cạnh tranh rất lớn trên thị trường lao động chất xám, chưa cần bàn đến chuyện anh có chuyên môn hay không, vì lúc đó vào được đại học đã có phần hơn người rồi.

Nhưng ngày nay, tấm bằng đại học gần như có thể sở hữu khá dễ dàng khiến nhiều người có cảm giác như đại học đang được phổ cập khắp nơi, chính vì vậy, nó không còn là lợi thế cạnh tranh nữa. Các doanh nghiệp, các nền kinh tế trong nước và thế giới lại rất cần người có thực lực; mà muốn có thực lực chắc chắn phải thực học rồi. Trong thời đại mà bằng cấp trở nên quá đại trà thì cũng là lúc mà "chân tài thực học" sẽ lên ngôi; bởi lẽ, chỉ có học thực mới có thể làm thực, chỉ có làm thực mới có thể sống thực, tất cả bắt đầu từ thực học.

Nhà hoạt động giáo dục Giản Tư Trung: Người miệt mài thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng cách mạng sự học - Ảnh 10.

Phải chăng đó cũng là lý do ôngmở trường PACE là để doanh nhân có thể "thực học" và nâng cao doanh trí - điều mà cách đây 20 năm chưa ai nghĩ tới?

- Chúng tôi tập trung vào sự học của doanh nhân. Nếu giúp thay đổi một sinh viên hay một nhân viên thì chỉ thay đổi được một người, nhưng nếu giúp cho một doanh nhân thay đổi thì sẽ thay đổi cả một xã hội đằng sau lưng của họ. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta có thể góp sức cho sự thay đổi hàng ngàn, hàng vạn doanh nhân? Chúng ta có thể góp phần thay đổi cả nền kinh thương.

Nhà hoạt động giáo dục Giản Tư Trung: Người miệt mài thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng cách mạng sự học - Ảnh 11.

Vì sao ông cho rằng mỗi người tự thay đổi thì tự khắc nền giáo dục cũng phải thay đổi?

- Có một phương châm hành động phù hợp bối cảnh này, đó là, ta không thể thay đổi được hướng gió nhưng có thể điều chỉnh được cánh buồm. Có một nguyên lý rất hay của hàng hải ngày xưa đó là thuyền muốn đi từ A sang B nhưng nhiều lúc gió lại thổi từ B sang A, nhưng nhờ biết điều chỉnh cánh buồm nên thuyền vẫn có thể đi ngược gió. Chúng ta sống trong thời đại rất nhiều gió, gió lại mạnh và thổi theo rất nhiều hướng, nhưng nếu cứ muốn thay đổi hướng gió thì sẽ không khả thi, sẽ cảm thấy vô vọng,thậm chí tuyệt vọng.

Nhìn lại vấn đề giáo dục, chúng ta đừng cầu xin nền giáo dục phải thay đổi, cơ chế phải thay đổi, mà hãy chủ động kiểm soát bằng tư duy "thay đổi đến từ tôi". Mahama Gadhi từng nói: "Bạn hãy là sự thay đổi mà bạn muốn nhìn thấy trong cuộc đời". Để chuyển từ nghề "bán than" (than thở, than vãn) sang nghề "bán hy vọng", bán niềm tin, bán hạnh phúc, bán thành công thì con người phải ý thức được 2 thay đổi: (1) Thay đổi đến từ tôi; và (2) Tuy không thay đổi được hướng gió nhưng tôi có thể điều chỉnh được cánh buồm nằm trong tay tôi.

Nhiệm vụ của giáo dục không phải là lựa chọn thay cho người khác hay khuyên bảo họ hay nhào nặn họ, mà chính là tiếp sức cho họ để họ biết cách tự lực khai phóng chính mình, tự thay đổi mình theo cách của họ để trở thành con người mà họ muốn, sống cuộc đời mà họ mơ. Điều sâu xa nhất của giáo dục khai phóng chính là giáo dục nhân bản mà thôi. Lâu nay nhiều khi cái từ "khai phóng" bị "loạn", trong khi bản chất chính là giáo dục nhân bản. Nhân là người, bản là gốc. Lấy con người làm gốc, cụ thể, lấy độc lập, tự do, hạnh phúc của người học làm gốc chứ không phải lấy áp đặt của mình làm gốc. Về mặt rộng hơn, nền giáo dục quốc gia cũng phải lấy độc lập, tự do, hạnh phúc của người học, người dạy làm trọng. Chứ không phải áp đặt hay nhào nặn, nhồi sọ - vì như thế không những không nhân bản mà còn phi nhân.

Nhà hoạt động giáo dục Giản Tư Trung: Người miệt mài thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng cách mạng sự học - Ảnh 12.

Xin ông nêu ví dụ cụ thể thế nào là "nhân bản"?

- Ví dụ, hàng ngàn năm nay người ta vẫn định nghĩa hôn nhân là cuộc hôn phối giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Chân lý đó giờ không còn đúng nữa. Giờ thì người ta định nghĩa: Hôn nhân là một cuộc hôn phối giữa con người và một con người, không liên quan đến đàn ông và đàn bà. Đó chính là nhân bản, vì người ta tôn trọng giá trị ai cũng có quyền hạnh phúc bất kể giới tính nào.

Nhà hoạt động giáo dục Giản Tư Trung: Người miệt mài thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng cách mạng sự học - Ảnh 13.

Hay trong tuyên ngôn độc lập của Mỹ hoặc trong tuyên ngôn nhân quyền của Pháp đều nói rằng: Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể chối cãi được, không ai có thể xâm phạm được, đó là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhưng bây giờ người ta có quyền mà trước đây chưa từng có - đó là quyền được chết! Nhiều nước đã có luật về quyền được chết êm ái, cái quyền mà hàng ngàn năm chưa ai dám nghĩ đến. Nhưng hàng ngàn năm trước chưa từng có. Đó cũng là nhân bản! Bởi lẽ, họ có quyền được thoát khỏi nỗi đau đớn, họ có quyền được ra đi và được trợ giúp để ra đi nhẹ nhàng (nếu thỏa các điều kiện theo quy định của pháp luật).

Cụ thể hơn trong giáo dục, cách tốt nhất để dạy người khác là giúp người đó biết cách tự dạy chính họ; cách tốt nhất để dạy con là giúp con biết cách tự dạy mình cả đời, là giúp con trở thành chính nó, chứ không phải nhào nặn con thành thứ mà mình muốn. Trong lãnh đạo cũng thế, cách tốt nhất để lãnh đạo người khác là giúp người đó biết cách tự lãnh đạo họ; cách tốt nhất để quản trị người khác là giúp người đó biết cách tự quản trị họ. Đây cũng là cách lấy sự độc lập và tự do, lấy sự phát triển của con người làm trọng. Đó chính là giáo dục nhân bản và lãnh đạo nhân bản.

Thiết nghĩ, chỉ khi ta xây dựng quốc gia, tổ chức, gia đình và cuộc đời trên nền tảng nhân bản thì mới bền. Chỉ những người có lương tri, có nhân tính thì hành động của họ mới nhân bản. Bởi lẽ, họ phải nhân bản với chính mình thì mới nhân bản với người khác. Có nghĩa là mình sẽ cố gắng không làm những việc phản bội lại danh dự, phẩm giá, uy tín của mình. Nói rộng hơn, khi chúng ta đầu tư cho văn hóa, tức là đầu tư cho lương tri, cho cái bên trong. Đó mới là "yêu bản thân".

Lâu nay, nhiều người hiểu yêu bản thân khá hẹp hoặc thậm chí sai lệch, kiểu như yêu chiều thân thể mình, cho mình quyền hưởng thụ nhiều hơn… Thật ra, yêu bản thân có hai phần: Yêu bản thể và yêu thân thể.Yêu thân thể cũng đúng, nhưng chưa đủ, cần yêu bản thể nữa. Bản thể chính là nhân bản, nhân tính của mình, là căn tính và đức tin của mình. Có bản thể mới có chính mình. Khi ấy mới có thể xây dựng mọi thứ của cuộc đời mình trên đó. Mà trong bản thể của mình cần có nhân tính, nhân bản. Khi con người nhân bản thì hành động thường sẽ có tính nhân văn!

Nhà hoạt động giáo dục Giản Tư Trung: Người miệt mài thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng cách mạng sự học - Ảnh 14.

Ông có lời khuyên gì cho những con người hiện đại đang sống trong một thời đại đầy hoang mang và dễ rời xa tính nhân bản?

- Không phải là lời khuyên, tôi chỉ chia sẻ suy nghĩ và góc nhìn của mình về vấn đề này để mọi người tham khảo. Bây giờ, điều ta cần làm là nhìn mọi thứ tỉnh táo và tĩnh tại. Trong một xã hội, một thế giới quá nhiều khủng hoảng: từ khủng hoảng y tế, kinh tế, văn hóa, xã hội, đến chính trị, từ khủng hoảng trong nước đến khắp nơi trên thế giới… nếu người ta không ý thức cho sự tĩnh tại và tỉnh táo thì chắc sẽ khó sống.

Nhà hoạt động giáo dục Giản Tư Trung: Người miệt mài thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng cách mạng sự học - Ảnh 15.

Ngày xưa, người ta nói "tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến", còn ngày nay, câu nói này có vẻ không còn phù hợp, xin phép thay đổi, "tâm bất biến giữa dòng đời tỉ tỉ biến". Có thể ví von sự thay đổi của mấy ngàn năm cộng lại cũng không bằng sự thay đổi của riêng thế kỷ 20, nhưng sự thay đổi của cả thế kỷ 20 có khi cũng không bằng sự thay đổi của hơn chục năm đầu của thế kỷ 21.

Chúng ta đang sống trong mộtthế giới biến động chóng mặt và khôn lường, mọi giá trị đều bị thách thức, nhiều chuẩn mực bị đảo lộn, nhiều niềm tin bị đổ vỡ, làm người ta hoang mang và lạc trôi. Nếu dùng một từ chuẩn xác để mô tả về thời đại này của thế giới mà chúng ta đang sống là "thời loạn chuẩn"!

Có những giá trị hôm nay mình thấy đúng, ngày mai đã thấy sai, ngày mốt lại đúng. Tức là "sáng đúng, chiều sai, mai lại đúng". Sống trong một thời loạn như vậy, làm sao đứng vững? Chỉ có một cách duy nhất: Phải có một điểm tựa, một cái neo -đó là những giá trị vượt không gian và thời gian. Vượt không gian nghĩa là ở đâu cũng đúng, vượt thời gian nghĩa làtrăm năm trước đúng, trăm năm sau vẫn đúng. Vậy tìm đâu ra những giá trị như thế? Giá trị đó chỉ có một từ thôi - nhân bản! Chỉ từ đó là trường tồn, bất biến. Còn những thứ khác đều có thể bị thay đổi, lật đổ.

Và để hình thành tínhnhân bản trong bản thân mỗi người thì mình phải qua hành trình khai minh để có cái "đầu sáng", trái "tim nóng" và cái "bụng rộng".

"Đầu sáng" là cái đầu có khả năng minh định được ai là ai, cái gì là cái gì, và mình là ai."Tim nóng" là trái tim có hồn, biết rung cảm trước cái đẹp, nhất là cái đẹp vô hình, cái đẹp không nhìn thấy, không sờ thấy, mà chỉ có thể cảm thấy mà thôi; biết thổn thức trước nỗi đau của đồng loại; biết phẫn nộ trước cái ác; đầy tình yêu thương và giàu lòng trắc ẩn… "Bụng rộng" là sự bao dung, vị tha; chỉ có "bụng rộng" thì ta mới bớt hẹp hòi, bon chen, đố kỵ; chỉ có bụng rộng thì ta mới có thể chứa được cả sự hẹp hòi của người khác…

Nhà hoạt động giáo dục Giản Tư Trung: Người miệt mài thúc đẩy giáo dục khai phóng bằng cách mạng sự học - Ảnh 16.

Có thể thấy những việc ông làm đều ẩn chứa thật nhiều tư tưởng và khát vọng lớn, vậy ông có thể chia sẻ khao khát lớn nhất của ông là gì?

- Theo tôi, khát khao lớn nhất của một đời người là trở thành con người tự do. Trong một thời cuộc nhiều biến động, để sống theo cách mình muốn mà vẫn có trách nhiệm và mang lại nhiều giá trị tốt đẹp cho đời không dễ. Nhưng người ta chỉ hạnh phúc khi sống theo cách mà mình muốn thôi. Nếu làm được điều đó là thành công lớn nhất trên đời.

Thế nên, trong các danh vị khó đạt mà trên khắp thế gian này con người có thể có như giáo sư, tiến sỹ, anh hùng, Nobel, triệu phú, tỉ phú…, theo tôi, có lẽ không có danh hiệu nào đẹp hơn "con người tự do".

Nguồn: https://danviet.vn/nha-hoat-dong-giao-duc-gian-tu-trung-nguoi-miet-mai-thuc-day-giao-duc-khai-phong-bang-cach-mang-su-hoc-2020110700504888.htm

-----
Tự chủ đại học là gì? - Nguyễn Thành Nam

Tự chủ
(Nói chuyện tại CLB Các nhà Khoa học trẻ. Đại học Quốc Gia Hà Nội, 17/7/2020)
Các thầy hỏi. Tự chủ gì là quan trọng nhất? Tài chính hay Cán bộ?
Đối với một đơn vị có hàm lượng chất xám cao và vị thế không trực thuộc Bộ GD&DT như Đại Học Quốc Gia, tự chủ quan trọng nhất là tự chủ về cơ chế, tự tạo ra chính sách để phát huy tối đa tiềm năng chất xám của đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất của mình.
Các thầy phải bỏ ngay ngộ nhận, trường tư là tự do, là cơ chế thoáng. Vì sao à? Vì trường tư có ông chủ. Nhất là ở Việt Nam lại thường chỉ có 1 ông. Chừng nào còn trong ý muốn của ông chủ thì các thầy mới được tự do. Còn ý muốn của ông chủ thế nào thì hên xui lắm.
Các thầy cũng không nên tự ru ngủ mình vẫn đang kiếm sống tốt bằng cách “đánh thuê” bên ngoài. Tự kiếm ăn được thì có lẽ anh shipper cũng làm được.
Các thầy cũng không nên ngồi đợi “đặt hàng” từ doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ mạnh về tài chính, chưa đủ tầm về chiến lược để “đặt hàng” cho các thầy.
VNU đang được nhà nước đầu tư tiền bạc vào các phòng thí nghiệm trọng điểm. VNU đang có đội ngũ cán bộ trẻ, được đào tạo bài bản. VNU đang có những sinh viên rất tài năng. Mà không một doanh nghiệp Việt Nam nào có thể có được.
Vậy VNU cần tạo cơ chế để nuôi dưỡng tinh thần khởi nghiệp của đội ngũ giảng viên, hãy lôi họ ra khỏi tháp ngà, khỏi vòng luẩn quẩn các bài báo “dạy đánh rồng”! Nghiên cứu khoa học để làm ra tiền, chứ không phải đi xin tiền để làm khoa học.
Chính các thầy phải tiên phong trong việc đưa ra những dự án có hàm lượng khoa học công nghệ cao, có thể tạo ra những sản phẩm có tính đột phá. Chất xám của các thầy + hạ tầng khoa học của trường + sự năng động của sinh viên phải tạo ra khác biệt.
Các thầy tìm cách hợp tác với doanh nghiệp để vượt qua những rào cản về quản lý ngân sách, về hạn chế trong chi thường xuyên, hoặc thói quen đầu tư không tới. Các thầy tìm kiếm hợp tác với doanh nghiệp để định hướng thương mại hóa và chia phần trong tương lai. Chẳng hạn nếu thành công thì các thầy được 1/3, VNU được 1/3, còn doanh nghiệp được 1/3. Nếu không có doanh nghiệp nào nhìn thấy tiềm năng của công trình, các thầy có thể tự mình gọi vốn. Tôi tin là bài pitching của 1 giáo sư trẻ sẽ thuyết phục hơn rất nhiều 1 cậu sinh viên mới ra trường.
Với thực trạng Việt Nam hiện nay, doanh nghiệp là phương tiện để làm khoa học, chứ chưa thể là điểm tựa cho sự phát triển của khoa học.
Tự chủ quan trọng nhất, là làm chủ chính mình!

https://www.facebook.com/nguyen.nam.54/posts/10217075061537308
-------

BTA  - Trần Đình Lương
"Tìm hiểu mãi, tôi rút ra mấy điều: Thứ nhất, kinh tế Mỹ rất mạnh, thị trường Mỹ rất rộng và rất tự do, tự do nhất thế giới. Ai vào thị trường Mỹ cũng được, miễn có hàng hóa và cạnh tranh được.  Chính sách của Mỹ rất khôn ngoan: mở cửa cho cả thế giới vào cạnh tranh và dân Mỹ được hưởng..

Thứ hai, Mỹ chi phối kinh tế thế giới, chi phối cả xu hướng tiêu dùng và sản xuất của thế giới. Đến hôm nay vẫn thế. 

Thứ ba, Mỹ chi phối các tổ chức quốc tế, nhất là WTO. Toàn bộ hệ thống luật pháp của WTO là chuyển từ hệ thống luật pháp của Mỹ ra. Mỹ như ông hộ pháp, đứng dạng chân trước cửa WTO, anh nào vào cũng phải qua cửa này.

Thời gian đầu đàm phán, mình biết ít nên cứ để bên kia nói. Mình chỉ nghe, hỏi và học bài. Đến khi mình nắm được đầy đủ ý tưởng của họ, khoảng năm 1998, thì tôi mới có "bài" của mình. "

Nguồn: https://cafef.vn/nguoi-dam-phan-cu-lan-xuong-san-ma-khong-tinh-va-2-uoc-mo-khong-thanh-20200713083247096.chn

-----
Blended learning có là giải pháp?

Những thách thức của giáo dục trực tuyến

TS. Huỳnh Thế Du - 11:01, 16/04/2020

TheLEADERThách thức lớn nhất của giáo dục trực tuyến là thiếu môi trường của lớp học thực sự mà ở đó tương tác, cạnh tranh, kiểm tra lẫn nhau giữa những người học và sự dõi theo của người dạy là những nhân tố then chốt thúc đẩy quá trình học tập.
Dịch Covid-19 buộc rất nhiều tổ chức giáo dục trên thế giới chuyển sang mô hình trực tuyến. Thoạt nhìn, đây là một bước tiến đáng kể của nền giáo dục toàn cầu cũng như Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn lại quá trình phát triển của mô hình giáo dục này với rất nhiều nơi đang chật vật cho thấy, các chương trình trực tuyến khó có thể thay thế mô hình giáo dục truyền thống.

Những mặt được

Tiện lợi: Học trực tuyến không phải đi lại, không cần địa điểm, có thể trao đổi với các bạn học và giáo viên dễ dàng và tiện lợi, có thể hướng đến những nhu cầu chuyên biệt của từng nhóm, có thể truy cập được nhiều nguồn lực.

Chi phí thấp: So với học trực tiếp, chi phí học trực tuyến thường có chi phí thấp hơn đáng kể. Những khoản chi phí lớn nhất có thể tiết kiệm được là chi phí đi lại, nhà ở và thu nhập bị mất đi do gián đoạn trong trường hợp học trực tiếp.

Công nghệ: Điều kiện cần cho việc học trực tuyến là máy tính có kết nối internet. Đây là điều nằm trong khả năng của rất nhiều người trên thế giới cũng như Việt Nam hiện nay. Việc học trực tuyến thường không bị giới hạn như học trực tiếp.

Những lợi ích khác: Có thể học tập với rất nhiều người ở những nơi và xuất phát điểm khác nhau, không bị phân biệt đối xử về giới, sắc tộc, việc tham gia đa dạng, đồng đều hơn so với lớp học trực tiếp vì thường chỉ có một vài người phát biểu, các phương pháp giảng dạy linh hoạt, sáng tạo.

Những thách thức của giáo dục trực tuyến
TS. Huỳnh Thế Du, giảng viên Trường Chính sách công và quản lý, Đại học Fulbright Việt Nam
Những khó khăn

Hạn chế trong tương tác xã hội: Đây là nhược điểm hay khó khăn lớn nhất của việc học trực tuyến. Việc học trực tuyến có ít cơ hội tương tác trực tiếp tạo ra sự gắn bó với các bạn cùng lớp và không có cơ hội tiếp xúc với những người khác trong trường. Điều này dẫn đến hạn chế trong khả năng thấu hiểu lẫn nhau, tạo dựng các mối quan hệ, mạng lưới có tính gắn bó với nhau. Không có tương tác trực tiếp với giảng viên, không có không khí giảng đường.

Chi phí về mặt công nghệ và sắp xếp lịch: Người học yêu cầu phải tiếp cận và học hỏi các công nghệ, chương trình mới, nhất là việc xử lý những trục trặc liên quan đến máy tính và mạng. Đây là vấn đề thương gây khó khăn và căng thẳng cho rất nhiều người. Lịch trình học có thể xung đột với lịch làm việc và sự không rõ ràng giữa công việc và học hành (việc công và việc tư).

Điều này có thể ảnh hưởng đến nghề nghiệp và cơ hội phát triển của từng cá nhân. Thêm vào đó, do ở khác các múi giờ nên việc học có thể rơi vào những thời gian rất bất lợi.

Khó đánh giá các kết quả: Cách thức và kết quả đánh giá từng học viên và chung của cả lớp là một trong những thách thức rất lớn của các lớp học trực tuyến. Vấn đề quan trọng nhất là khó đánh giá kết quả mà người học tiếp thu được từ lớp học nói chung, cách thức truyền đạt của người dạy nói riêng.

Thách thức đối với người dạy: Người dạy cũng thường xuyên phải cập nhật các tiến bộ công nghệ. Việc chuyển từ lớp học truyền thống với các bài giảng và tương tác trong lớp sang môi trường trực tuyến thường rất thách thức đối với người dạy. Để có thể học tốt thì người học phải tự có động cơ và kỷ luật mà không có giám sát của người dạy và áp lực từ bạn cùng lớp.

Thách thức lớn nhất: Thiếu áp lực và khuyến khích

Bản chất của con người là lười và hay trì hoãn, trong khi học là một việc hết sức nặng nề, căng thẳng. Đối với các lớp học trực tiếp, như đã nêu ở trên, người học thường chịu sự giám sát từ giảng viên và cạnh tranh hay áp lực từ bạn bè, trong khi các lớp học trực tuyến thường thiếu vắng điều này.

Khi tham gia các lớp học trực tiếp, người học luôn có cảm giác với ánh mắt theo dõi của giảng viên ở cả hai mặt tạo động cơ khuyến khích và áp lực. Việc nhận được những lời khuyến khích từ giảng viên có tác động rất lớn trong việc học tập và tìm tòi sáng tạo, và việc trong trạng thái luôn có sự dõi theo của giảng viên tạo áp lực cho người học giảm tâm lý trì hoãn hay làm những việc ảnh hưởng đến quá trình học tập.

Tương tự, do tiếp xúc hàng ngày nên người học biết được mình đang ở đâu trong lớp để phấn đấu hơn. Tâm lý con người thường muốn vươn lên, do vậy tất cả các thành viên trong lớp (nhóm khá nhất, nhóm ở giữa và nhóm yếu) đề có động cơ vươn lên tốt hơn. Nhóm đầu thì muốn tốt hơn nữa, nhóm giữa thì cải thiện với các cơ hội có được và nhóm phía sau thì có nỗ lực vươn lên để không bị trượt hay không đủ tiêu chuẩn yêu cầu của môn học.

Hai điều trên, thường thiếu ở các lớp học trực tuyến. Cảm giác có người thầy luôn nhìn sau gáy về việc học của mình thường không có và người học rất khó biết mình đang ở đâu trong lớp và những người bạn cùng lớp học như thế nào. Do vậy, người học thường không có cơ sở hay điểm tựa để cải thiện.

Tóm lại, giáo dục trực tuyến có những ưu điểm của nó. Tuy nhiên, thách thức quan trọng nhất là thiếu môi trường của lớp học thực sự mà ở đó tương tác, cạnh tranh và kiểm tra lẫn nhau giữa những người học và sự dõi theo của người dạy là những nhân tố then chốt thúc đẩy quá trình học tập.

Do vậy, chúng ta không nên kỳ vọng quá cao về mô hình học tập này, đặc biệt là nghĩ rằng mô hình này có thể thay thế tốt cho mô hình trường học truyền thống. Hai mô hình bổ trợ cho nhau nhiều hơn là thay thế cho nhau và mô hình giáo dục tại chỗ vẫn còn chỗ đứng rất lâu nữa. Điều mong mỏi lúc này là dịch bệnh sớm qua đi để các hoạt động và giao tiếp xã hội có thể trở lại.

(*) Bài viết thể hiện quan điểm của TS. Huỳnh Thế Du, giảng viên Trường Chính sách công và quản lý, Đại học Fulbright Việt Nam

Nguồn: https://theleader.vn/nhung-thach-thuc-cua-giao-duc-truc-tuyen-1587005715687.htm
------

Hướng tới một thế giới với hệ sinh quyển bền vững, cân bằng sinh thái, bảo vệ môi trường.
Sống trong sự tiết chế.
Nếu không sẽ đi tới sự hủy diệt.

[Covid-19 Đã Đặt Nhân Loại Ở Ngã Ba Đường
 Chu Hảo

Ngay trước khi qua đời  Nikita Moiseev (1917-2000, Nga)  đã kịp để lại cho hậu thế một trước tác kinh điển: Tồn tại hay không tồn tại…Loài người?( NXB Tri thức 2019) , trong đó ông chỉ ra rằng loài người  đang đứng trước một tai họa vô cùng nguy hiểm. Đó là, Hệ sinh thái của Trái đất-ngôi nhà chung của chúng ta, có thể bị hủy hoại hoàn toàn trong một tương lai rất gần nếu nhân loại không hợp lực để cứu vãn tình trạng đang ngày càng bi thảm này. Theo ông, từ nửa cuối TK19 nền khoa học&công nghệ đã  hoàn hảo và hùng mạnh đến mức đủ sức để khai thác triệt để Tự nhiên như một “kho trời” vô tận, nơi tích lũy tất cả những gì cần thiết cho sự thỏa mãn những nhu cầu vô độ của con người, đồng thời cũng làm tăng tốc cuộc đại khủng hoảng  Môi trường sinh thái- Sinh quyển của Trái đất đang chín muồi. Moiseev cho rằng : “ Loài người như một loài sinh vật mang tính hữu tử, và theo nghĩa ấy thì kết cục của lịch sử loài người một ngày nào đó sẽ đến. Và không phải  trong một tương lai hoàn toàn không xác định, mà có thể ngay vào giữa TK21”.
Rồi mới gần đây thôi thế giới lại xôn xao bàn luận về các tác phẩm trứ danh của Nhà nghiên cứu lịch sử trẻ tuổi người Israel, sinh năm 1976, Yuval Noah Harari :  Sapiens-lược sử về loài người, Homo Deus-lược sử tương lai, và  21 bài học cho TK21 (NXB Thế giới, 2018-2019). Theo ông cuộc CMKH&KT từ TK17 và những thành tựu huy hoàng của nó cho đến cuối TK20 tuy đã làm cho con người vượt qua được nỗi sợ muôn thuở  các nguy cơ  nạn đóibệnh tật và chiến tranh, nhưng lại tự chuốc vạ cho mình bởi những khát vọng trường sinh bất tử, hạnh phúc viên mãn và sức mạnh thần thánh. Nhưng chính khát vọng ấy sẽ mau chóng đưa loài người đến diệt vong bằng cách biến loài HomoSapiens thành một loài “nửa người nửa ngượm” với bộ não gắn “chip” trí khôn nhân tạo và các bộ phận cơ thể sống được chế tạo từ các tế bào gốc và vật liệu nano dẻo. Thế là chấm  hết mọi ý nghĩa thiêng liêng mà Tạo hóa dành cho Con người. Lời cảnh báo nghe có vẻ rất “kỹ trị” (technocrat) ấy xem ra không phải là viển vông.
Với các cách tiếp cận và lý giải khác nhau, nhưng họ đều có chung một thông điệp: TK20 là Thế kỷ cảnh báo, còn  TK21, là Thế kỷ lựa chọn giữa ngã ba đường: Sống thế nào hay là chết thế nào?.  Moissev đã không còn cơ hội để nhìn thấy TK lựa chọn sẽ xẩy vào lúc nào nữa. Còn Harari thì khi viết về dịch bệnh trong cuốn sách đầu tiên của mình chắc cũng không thể ngờ rằng đại dịch Covid -19 đang hoành hành trên khắp hành tinh này đã sớm đặt nhân loại giữa ngã ba đường, đứng trước một bước ngoặt lịch sử, đúng vào lúc cuộc khủng hoảng toàn diện toàn cầu đã hé lộ. Loài người thông minh không còn thời gian lưỡng lự hàng thế kỷ nữa, mà phải lựa chọn ngay từ bây giờ, từ những thập kỷ đầu tiên của Thiên niên ký thứ ba này, để sống sót và viết tiếp lịch sử của mình.
Trong cuộc trả lời phỏng vấn của tờ L’Opinion (Pháp) ngày 1 tháng 4 vừa qua Harari cho rằng: “ Chúng ta đã bước vào một cơn lốc lịch sử do cuộc khủng hoảng sức khỏe này gây ra. Những quy luật bình thường của lịch sử đã hoàn toàn thay đổi. Và chỉ trong vài tuần, những gì không thể trong quá khứ giờ đã trở nên bình thường. Sự thay đổi này có nghĩa là, một mặt chúng ta nên cực kỳ thận trọng, mặt khác chúng ta cũng nên cho phép mình có những ước mơ”.  Thật là một phán xét chí lý! Phải cực kỳ thận trọng để đánh giá toàn diện tác động khó lường của cuộc khủng hoảng trầm trọng này, đồng thời cũng phải tổng kiểm duyệt nhằm phát hiện những bất cập cần phải hủy bỏ ( có thể nói là rất, rất nhiều!) trong các văn bản pháp luật ở tầm quốc tế và quốc gia; nhưng mặt  khác lại phải có đủ hoài bão sáng tạo để tận dụng những cơ hội hiếm có mà nó mang lại.
Như chúng ta đã thấy, chỉ trong vài tuần Covid-19 đã  rung chuyển thế giới, làm lung lay nhiều quan niệm truyền thống về cuộc sống của con người và các định chế xã hội (từ cấp độ toàn cầu đến  quốc gia).
Từ chỗ là một thành  phần cơ hữu của Tự nhiên, mấy thế kỷ vừa qua loài Homo Sapiens đã tự tách mình ra khỏi và đứng trên Tự nhiên, cố gắng đóng vai trò của Chúa thiết kế nên sự sống. Ngay từ năm 1818 Mary Shelley ( Anh,1797-1851 ) đã cảnh báo sự trừng phạt nặng nề sẽ đến đối với cái cố gắng bất kính Tạo hóa ấy thông qua con quái vật Frankenstein- một thực thể động vật nhân tạo do một nhà khoa học chế tác, rồi vô tình làm sổng nó khỏi tầm kiểm soát và gây ra những tai hoạ  khủng khiếp. Con virus Sars-Cov-2  là hiện thân thực thể của con Frankenstein do nhà văn tưởng tượng. Chỉ có điều bà Mary Shelley đã cho Frankenstein được sổng chuồng một cách vô tình, còn con Sars-Cov-2 thì hình như không phải vậy: tuy chưa có bằng chứng chắc chắn, nhưng nhiều ý kiến cho rằng trước sau sự thật sẽ chỉ mặt vạch tên tác giả của con virus nguy hiểm này và bọn tội phạm diệt chủng nào đã cố tình thả nó ra?
Dù sao ta  cũng phải cám ơn sự xuất hiện của con virus chủng Corona tinh quái đã gây ra đại dich Covid-19 vào đúng lúc này, vào lúc mà lời cảnh báo của Moiseev về ngày tận thế của Sinh quyển rất có thể đang cận kề, trở thành hiện thực. Và đúng như Gael Giraud ( Pháp, Diendan.org 4-2020 ) đã sớm nhận ra: “ Đại dịch này là cơ hội để chúng ta thay đổi cuộc sống và các định chế nhằm tới hạnh phúc trong sự tiết độ và và sự tôn trọng tính hữu hạn [của trí lực con người]”.
Có nhiều phán xét và dự báo đã được đưa ra, ít nhiều đều có cơ sở, nhưng cũng có những kết luận vội vàng và có cả những ngộ nhận.
Về phương diện dịch bệnh. Chưa ai biết chắc bao giờ Vovid-19 sẽ qua đi, nhưng với quyết tâm điều chỉnh chính sách phòng chống dịch bệnh đang đi đúng hướng của các chính phủ và nỗ lực sáng tạo phi thường của cộng đồng khoa học thế giới, ta có cơ sở để hy vọng nó sẽ sớm được dập tắt. Tuy nhiên nếu con virus này là nhân tạo ngoài vòng kiềm chế, không theo quy luật virus tự nhiên thì vấn đề phức tạp hơn nhiều. Nó tiếp tục tạo ra các đỉnh mới? Hay một đại dịch khác đang chờ sẵn trong lai rất gần, và cứ thế tiếp tục… cho đến cho đến thời  hạn chót mà Moiseev đã cảnh báo. Riêng tôi vẫn hy vọng rằng đại dịch này mới  là một cú tát của Tạo hóa chỉ vừa đủ làm cho chàng Homo Sapiens đang say lảo đảo tỉnh ngộ.
Về phương diện knh tế. Nhìn vào các gói trợ cấp khổng lồ mà tuần qua các chính phủ đồng loạt khẩn cấp tung ra để cứu vãn nền kinh tế và sự an sinh xã hội của nước mình, ta có thể thấy được mức độ tàn phá của Covid-19 gây ra. Nếu trong vài ngày tới New York “vỡ trận” thì một cuộc Đại suy thoái mới này có thể còn trầm trọng hơn cuộc Đại khủng hoảng kinh tế thế giới xẩy ra từ năm 1929 đến đầu những năm 40 thế kỷ trước, cũng xuất phát từ thành phố này khi thị trường chứng khoán phố Wall sụp đổ. Thế nhưng khẳng định rằng : Chủ nghĩa tự do kinh tế, vốn là bùa thiêng cứu các nước công nghiệp vào thập kỷ 70-80 thế kỷ trước, đã hoàn toàn thất bại ; và rằng : Kỷ nguyên cực thịnh của Toàn cầu hóa đã qua [John Gray, New Statement 4-2020 v.v…  ], thì có lẽ là hơi vội.  Sau đại dịch này Chủ nghĩa tự do kinh tế sẽ tự điều chỉnh để thích nghi theo hướng  : Từ bỏ mục tiêu Tăng trưởng không ngừng bằng mọi giá bất chấp sự hủy hoại môi trường sinh thái - nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đại dịch này; điều chỉnh mối tương liên giữa các mắt xích trong chuỗi cung ứng giá trị  toàn cầu để nó “lỏng lẻo’ hơn, linh hoạt hơn. Toàn cầu hóa cũng vậy, nó vẫn không thể đảo ngược được. Chỉ có điều, sau đây nó sẽ không chỉ là sân chơi chủ yếu của nhóm nước “ một tỷ vàng” và các Công ty xuyên quốc gia, luật chơi sẽ được viết lại để sự hợp tác bình đẳng hơn như đang xẩy ra trong đại dịch này, để cùng sống sót sau bất kỳ tai họa nào trong tương lai.
Về phương diện chính trị. Thông thường thì khi phải xử lý tình trạng khẩn cấp, một thể chế chuyên chính có nhiều lợi thế hơn. Nhưng trong đại dịch này con Covid-19 đã buộc mọi quốc gia, không phân biệt thể chế, phải tiến hành các biện pháp cưỡng bức như nhau. Có  người lo   rằng xu hướng này sẽ dẫn đến thất bại của nền dân chủ. Không hẳn vậy, đây lại chính là một cơ hội cho các thể chế dân chủ ( đặc biệt ở những nước “một tỷ vàng” ) điều chỉnh thể chế. Còn nhớ ngày11 tháng 11 năm 1947 cố Thủ tướng Winston Churchill đã có một tuyên bố nổi tiếng trước Quốc hội Anh : “ Dân chủ không phải là hình thức xã hội tối ưu, nhưng hiện nó đang là hợp lý nhất, và vẫn chưa có thể chế nào hay hơn nó.”  Điều này vẫn còn nguyên giá trị  cho đến ngày nay. Mới đây Garett Jone đã xuất bản cuốn sách thú vị “ Ít đi 10% Dân chủ” ( 10% less Democracy, Stanford Univversity Press, 2-2020 ) với ngụ ý rằng ở các nước G-7  nên bớt đi 10% Dân chủ sẽ tốt hơn. Theo ông thì Singapore Dân chủ đã mất đi 50% rồi,[ vậy thì con số ấy của Trung Quốc phải là 90%!?] . Covid-19 là cơ hội để nền Dân chủ thúc đẩy cải cách theo kiểu đó, chứ nó không thể thất bại. Sau đại dịch người dân có thể chấp nhận sự kiểm soát của chính quyền  bằng căn cước điện tử nhằm phục vụ an sinh, như để phòng chống dịch bệnh…, chứ không dễ dàng từ bỏ khát vọng được tự do biểu đạt ý kiến riêng trên mạng xã hội. Sau đại dịch bất ngờ này nhân dân toàn thế giới càng nhận thức rõ thế nào là một chính quyền thật sự vì Dân, tôn trọng sự minh bạch và trách nhiệm  giải trình. Người dân chỉ cần một chính phủ hành động quyết liệt và hiệu quả, chứ không cần những khẩu hiệu chính trị suông.
 Về các giá trị truyền thống. Covid-19 đã làm chúng ta hốt hoảng đến nỗi nhiều người nghĩ rằng sau đây mọi giá trị sẽ đảo lộn. Điều này chỉ là biểu hiện của tình trạng mà Thanh Viêt ( Nhà văn mỹ gốc Việt, Giải Pulitzer 2016 ) đã nhìn thấu : “Kẻ thù thực sự của chúng ta không phải là con virus, mà là phản ứng của chúng ta với virus – một phản ứng đã bị suy thoái và biến dạng bởi sự bất bình đẳng về cấu trúc của xã hội”. Cái phải thay đổi không phải là các giá trị truyền thống cốt lõi như lòng vị tha và tình yêu thương đồng loại, đúng là: “Lòng tốt với người khác là điều quý giá đến mức phải được chia sẻ”. Hàng ngũ Y- Bác sĩ và các nhân viên y tế toàn thế giới lần này đúng là các vị Bồ tát cứu nhân độ thế. Các nhà khoa học khắp nơi chưa bao giờ có dịp hợp tác vô tư đúng với tinh thần học thuật vì mục đích nhân đạo, như đang cùng nhau chung sức chống tác hại của con virus nhỏ bé mà tàn bạo này. Và có lẽ cũng từ khi sinh ra đến giờ loài Homo Sapiens mới có dịp định thần để suy nghĩ và trải nghiệm lại giá trị của gia đình như một tế bào của xã hội.
           Về lối thoát. Đã 20 năm kể từ khi lời kêu gọi thống thiết của Nikita Moiseev về việc ngăn chặn thảm họa Môi trường sinh thái – Sinh quyển của Trái đất, vẫn bị các Tổ chức quốc tế có liên quan, các chính phủ và cộng đồng xã hội ngó lơ. Đề  xuất của ông về việc giới tinh hoa toàn cầu phải mau chóng hợp sức tạo ra Trí quyển – Tập hợp Trí tuệ của nhân loại để cấp cứu Sinh quyển trước khi nghĩ đến những điều to tát hơn, hình như cũng sắp rơi vào quên lãng.
May thay, Covid-19 xuất hiện như một sự sắp xếp của Tạo hóa, nhắc nhở loài người về một ngày “tận thế” không xa…Đi về phía ấy hay rẽ sang ngã khác phụ thuộc vào mỗi chúng ta.

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 15-4-20]
-----

Về Nguyễn Xuân Xanh.

[ “quy luật của Einstein”: ở đâu có những ý tưởng tích cực, sáng tạo, ở đó có năng lượng mới tuôn chảy, đừng lo.]

Nguồn: https://thanhnien.vn/giao-duc/nguyen-xuan-xanh-mot-doi-cung-sach-1133853.html
---------

Lãnh đạo hiện nay:

"Đó là một lý do hơn lúc nào hết, chúng ta cần thay đổi cách nghĩ về lãnh đạo. Thứ nhất, đó phải được coi là một hoạt động tập thể chứ không phải của một vài cá nhân. Trong thế giới phức tạp và đã đổi thay nhanh chóng, chúng ta không thể tiếp tục phụ thuộc vào ý chí của một vài người có thẩm quyền để đưa ra tất cả câu trả lời cho tổ chức, thậm chí đẩy đi những cá nhân khác nếu họ không ưa. Các tổ chức phải từ bỏ cách tư duy cũ, có phần vị kỷ và cảm xúc, cách làm việc không còn hiệu quả cao nhất nếu họ muốn phát triển mạnh, và thậm chí sống sót.

Thứ hai, vì sự thay đổi này đã diễn ra trên thế giới, chúng ta cần sử dụng từ lãnh đạo như một "động từ" chứ không phải là một "danh từ". Trong bối cảnh này, lãnh đạo là một hoạt động và không phải là một chiếc ghế. Vì là một động từ, bất cứ ai cũng nên được tạo điều kiện để có thể tham gia vào các hoạt động lãnh đạo, phát huy ý tưởng, năng lực trí tuệ, bất cứ ai cũng có thể tạo ra giải pháp mới.

Bởi mỗi người có quan điểm độc đáo của riêng mình do lịch sử, văn hóa, tôn giáo, chủng tộc, giới tính, dân tộc, nền tảng giáo dục, kinh nghiệm và nhiều thuộc tính khác. Nên nếu họ có cơ hội mang tư duy, ý tưởng và đề xuất tốt nhất để giải quyết thách thức của tổ chức, ta có các ý tưởng giá trị nhất."

Nguồn: https://vnexpress.net/goc-nhin/chat-xam-chay-di-3902405.html
-----

Giáo sư Lâm Quang Thiệp: Hiệp hội các trường Đại học và Cao đẳng Hoa Kỳ (AAC&U) đã đưa ra định nghĩa về Giáo dục khai phóng như sau: "Giáo dục khai phóng là một cách tiếp cận học tập tạo năng lực và chuẩn bị cho từng cá thể người học ứng phó với sự phức tạp, đa dạng và thay đổi. Nó cung cấp cho người học một nền kiến thức bao quát về thế giới rộng lớn (khoa học, văn hóa và xã hội) đồng thời đi sâu nghiên cứu một lĩnh vực quan tâm xác định. Giáo dục khai phóng giúp người học phát triển ý thức về trách nhiệm xã hội cũng như tri thức khả dụng mạnh mẽ và các kỹ năng thực tiễn như giao tiếp, phân tích và giải quyết vấn đề, cũng như thể hiện một năng lực áp dụng kiến thức và kỹ năng vào đời sống thực tế".

Đối với chương trình đào tạo đại học, có hai xu hướng phổ biến là xu hướng Giáo dục khai phóng như trên, để hình thành những con người toàn diện có tầm nhìn, có năng lực tư duy và tình cảm nhân văn (con người-mục đích); và xu hướng thực dụng đào tạo con người gắn với một nghề nghiệp xác định (con người-công cụ).

Trong lịch sử phát triển của mình, mục tiêu của giáo dục đại học dường như dao động giữa hai trạng thái nêu trên. Cho đến các thập niên đầu của thế kỷ 21, trên toàn cầu xu hướng Giáo dục khai phóng đã trở lại một cách mạnh mẽ. Vì lẽ, một là, công nghệ mới làm cho xã hội biến đổi nhanh chóng, cần một tầm nhìn rộng lớn mới định hướng được cuộc sống, như cần la bàn để đi biển. Hai là, người ta ngày càng nhận ra sự cần thiết của các "kỹ năng mềm" (khả năng giao tiếp, óc phê phán, tổng hợp và phân tích). Ba là, do vòng đời công nghệ quá ngắn, thế kỷ 21 không đảm bảo có một nghề nghiệp ổn định: thị trường nhân lực rất đa dạng và đầy biến động. Chương trình đào tạo chuyên môn hẹp không thích hợp với nền kinh tế tri thức đòi hỏi kiến thức rộng liên ngành và năng lực đổi mới.

Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, giáo dục đại học Việt Nam tất yếu phải hòa vào dòng chảy chung của giáo dục đại học thế giới, do đó có dấu hiệu Giáo dục khai phóng phục hồi. Các trường đại học hiện đại nhất ở Việt Nam, như Đại học Fulbright và Đại học Việt - Nhật đã mở đầu tuyên bố áp dụng Giáo dục khai phóng trong chương trình đào tạo của mình. Tôi nghĩ xu hướng này sẽ lan tỏa ra các trường đại học khác, vì không thể nào khác nếu muốn đào tạo sinh viên thành những công dân toàn cầu trong thời đại mới.

Nguồn: https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-47433571
-----

"- Ồ, "Gặp gỡ Moriond", tôi có biết tới câu chuyện này thông qua bộ phim tài liệu "Ngọn lửa Moriond" được phát trên VTV, và nói thật là tôi rất ấn tượng với một chi tiết trong bộ phim ấy, đó là mùa xuân năm 1966, Moriond dù là một ngôi làng vô danh kẹp giữa Pháp và Italia nhưng đã được chọn là nơi diễn ra những cuộc gặp gỡ phi chính thống giữa những nhà khoa học trẻ và những nhà khoa học lớn trên thế giới, do chính giáo sư đề xuất. Nếu "Gặp gỡ Việt Nam" có tuổi đời trên 25 năm thì "Gặp gỡ Moriond" có tuổi đời trên 50 năm rồi, phải không ạ?

- Đến nay đã là 54 năm! Sở dĩ kéo dài được như thế vì khi tôi khởi xướng "Gặp gỡ Moriond", tôi được nhiều con người nhiệt huyết, tận tâm giúp đỡ. Tôi hy vọng ở Việt Nam cũng sẽ có một ý chí tập thể giống như thế. Một ý chí đủ mạnh mẽ và bền bỉ, chứ không phải chỉ ở dạng thấp thoáng ban đầu.
...
- Tất cả đều xuất phát từ một nhận thức đơn giản rằng, sự hiện diện của chúng ta trên trái đất này là vô cùng ngắn ngủi. Và chúng ta - những lớp người đi trước - cần chung tay giúp các bạn trẻ xây dựng tương lai."

-----

Trao đổi giữa nhà báo Phan Văn Thắng và tác giả Nguyễn Thị Từ Huy về khai phóng:

"Đại học dạy cho sinh viên cách suy nghĩ chứ không chỉ là nội dung suy nghĩ, dạy cho học sinh biết cách học, chứ không chỉ là nội dung cần phải học. Nghĩa là dạy cho sinh viên khả năng phản biện, sáng tạo, chứ không phải chỉ là ghi nhớ và vận dụng."

"Ngày nay, châu Âu nói chung không có các trường đại học khai phóng hay chương trình khai phóng ở đại học như mô hình của Mỹ, nhưng phương pháp giảng dạy của giảng viên và phương pháp học tập của sinh viên trong các trường đại học thì luôn theo tinh thần khai phóng. Sinh viên không học thuộc lòng, mà họ học để hiểu, để phê phán và sáng tạo. Họ đọc các tác phẩm với tư duy phản biện, họ đọc để đồng tình hoặc phản đối, và luôn được dạy cách tìm ra những điểm có thể phê phán hoặc cần được xem xét lại của mỗi tài liệu, mỗi tác giả, mỗi trào lưu…"

"Tuy nhiên, tôi vẫn thấy rằng để thực sự có một nền giáo dục khai phóng trong bối cảnh hiện nay là vô cùng khó khăn. Khó khăn ấy đến từ thể chế, cơ chế, từ sức ỳ của xã hội, của nền giáo dục đã quá ư rệu rã và lạc hậu, từ cái văn hóa thủ cựu, lem nhem của chúng ta, từ mỗi chức sắc và từ mỗi người, trong đó có chúng ta"

Nguồn: http://www.vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/khach-moi-cua-tap-chi45/khai-phong-giao-duc-khai-pho-ng-chi-nh-mi-nh-khai-pho-ng-mo-i-ca-nhan
------

Ý kiến của nhà ngoại giao Phạm Quang Vinh,

"- Nói là "hàng đầu" thì tôi không dám nhận. Các cụ nói thì mình học thôi, "biết mình biết người", tức là mình phải nắm rất rõ lợi ích dân tộc và vị thế đất nước. Lợi ích dân tộc phải nắm để ứng xử làm sao đảm bảo mình là người đại diện cho quốc gia, trong bối cảnh lợi ích quốc gia tương tác và song trùng với lợi ích của nước khác. Còn "biết người" có nghĩa là cục diện thế giới bây giờ thay đổi rất nhiều, nếu mình không biết được thế giới họ đã thay đổi, không theo sát những điều chỉnh của đối tác thì mình không "khớp" được với họ. Đây là cuộc cờ làm sao gắn kết được lợi ích của dân tộc.

Cá nhân tôi thì chỉ gửi gắm hai điều: Một là phải rèn được bản lĩnh của người làm công tác đối ngoại, dũng cảm không chỉ trong lúc triển khai thực hiện chiến lược mà ngay cả trong lúc kiến nghị chính sách, tham mưu cho cấp trên. Hai là phải liên tục học hỏi, làm đối ngoại bây giờ không phải là nói dăm câu ba điều cho sướng tai người này người kia hay vài ba chữ ngoại ngữ là xong."

Nguồn: https://news.zing.vn/viet-nam-va-cuoc-co-loi-ich-dan-toc-trong-the-gioi-day-bien-dong-post913648.html

----
Khoa học dữ liệu:


-----

Ý kiến của Nguyễn Thành Nam (Funix)

"Tôi luôn tin vào những người mơ mộng và dám theo đuổi giấc mơ của mình. Rất nhiều phát minh vĩ đại trên thế giới xưa nay đã bắt nguồn từ những ý tưởng ban đầu tưởng như rất điên rồ. Đến bây giờ nhiều người vẫn chưa hình dung được siêu máy tính và siêu kính thiên văn dùng để làm gì, thì tôi tin khi mới được phôi thai, đây có thể cũng là một ý tưởng bị coi là “lãng mạn”. Trung Quốc đã biến sự lãng mạn này thành hiện thực.

Điều nghịch lý là trong khi dè bỉu những mặt hàng kém chất lượng của nước láng giềng, dân ta dường như lại cũng mặc định rằng, họ là nước lớn, đương nhiên sẽ làm được những thứ lớn lao. Tôi thì lại nghĩ, họ làm được những thứ lớn lao vì họ có những giấc mơ lớn. "

Nguồn: Trung Quốc quen hay lạ?
------

GS Hồ Tú Bảo...

"GS Hồ Tú Bảo có những suy nghĩ, kiến giải sâu sắc về khoa học và vai trò của khoa học trong cuộc sống. Ông nói công bố quốc tế không phải mục đích tối thượng của khoa học.

Khoa học suy cho đến tận cùng phải xuất phát từ cuộc sống và phục vụ cuộc sống. Trong trào lưu mà người người, nhà nhà nói về cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ông là một trong số ít những người hiểu thật, nói thật chứ không "chém gió".

Ông nói: “Chỉ một số ít quốc gia sẽ thắng và thu về tất cả”, ngắn gọn, súc tích mà đầy đủ. Nói cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhưng cái đột phá về công nghệ số dẫn đến sự thay đổi ở mọi mặt của xã hội, chứ không chỉ trong công nghiệp. Vì sao ta phải thắng? Làm thế nào để thắng? Không thắng thì sẽ tiếp tục làm thuê sao? Nhưng đó là việc khó, muốn thắng thì phải làm, phải xây dựng đội ngũ chứ ngồi "chém gió" thì sao tiến lên?"

Nguồn: GS Hồ Tú Bảo - từ AK đến AI và chân dung nhà khoa học gốc lính [nguoidothi.net.vn][đọc]
------

Tiền là xăng xe - Công ty là chiếc xe hơi

Công ty có ý tưởng hay như xe hơi có thiết kế vượt trội, xe không xăng sẽ không chạy được.

Chức năng của công ty chỉ để kiếm tiền, thì cũng giống như mua xe chỉ để đi kiếm thật nhiều xăng.

Vấn đề là bạn muốn dùng xe hơi để đi đến đâu? và làm sao để có đủ xăng giúp xe hơi đi được tới nơi mà bạn muốn. Mục đích của công ty là để làm được một cái gì đó, để thúc đẩy các động lực khác phát triển, và đóng góp cho xã hội. Tiền là công cụ giúp công ty đi đến đích.

Tiền quan trọng và là thứ cần thiết, nhưng đó không phải là lý do đầu tiên khiến chúng ta mua xe.

Vấn đề là có nhiều người muốn đến đích mà không cần dùng tới xe hơi, họ thích đi bộ, đi xe đạp, đi bằng trí tưởng tượng thì lại không cần xăng.

Nguồn: https://www.facebook.com/CafeF/videos/496007447551304/

(coi xong triết lý cao siêu ở trên, thấy bụng đói, kiểm tra ví, còn đúng 10 ngàn, đi mua tạm mấy gói mì cho bữa sáng)
-----

Nụ cười Stan Shih (vê giá trị gia tăng)

"Cách nhìn mang lại phúc lợi và cuộc sống tốt hơn cho những lao động không có kỹ năng - nhóm có phúc lợi hay đời sống thấp nhất trong xã hội nêu trên khớp với Thuyết công bằng của John Rawls. Triết gia người Mỹ ở thế kỷ 20 cho rằng: “Phúc lợi của xã hội được đo bằng phúc lợi của những người có phúc lợi thấp nhất trong xã hội. Do vậy, nhiệm vụ của xã hội đơn giản là tập trung nâng cao phúc lợi của những người này.”

Giờ đây, Việt Nam đã thu hút được rất nhiều vốn FDI, nhưng vẫn chưa tận dụng được các cơ hội để bước lên những nấc thang giá trị cao hơn. Chúng ta vẫn đang quanh quẩn ở vùng đáy, cặm cụi khâu giày cho Nike, lắp bo mạch cho Intel và điện thoại cho Samsung ... 4.0 của Việt Nam đang là như vậy."

Nguồn: Fb Huỳnh Thế Du [đọc]
-----

[... giáo dục Việt Nam chú trọng quá nhiều vào điểm số, vào các kỳ thi, các bậc phụ huynh thì quá kỳ vọng vào con và muốn can thiệp quá sâu vào tương lai của con, đặt cho con mục tiêu quá cụ thể như bằng cấp, việc làm, dẫn đến đa số các bạn trẻ thụ động, không có hay không dám có hoài bão của riêng mình, không đủ động lực, nỗ lực để thực hiện ước mơ của mình, không thể trở thành một người mà chính mình mong muốn.

Các bạn trẻ của chúng ta không có đủ khoảng trống để suy nghĩ xem mình muốn làm gì trong đời mình, muốn trở thành ai trong tương lai.

Tôi muốn khơi gợi trong họ tiềm năng cá nhân đang ngủ yên, ước mơ nào lớn hơn một việc làm đang ẩn khuất, và chỉ cho các bạn cách tìm ra con đường của chính mình, chuẩn bị để đón bắt cơ hội tiến thủ, thúc đẩy ý chí, nỗ lực để khai phóng hoài bão...

...

Trên đường đời, không cần cạnh tranh với ai, chỉ cạnh tranh với bản thân mình là đủ. Không cần cố gắng làm một người thành công với những mục tiêu cụ thể, mà hãy cố gắng để trở thành một người có giá trị với chính mình, với gia đình, bạn bè, tổ chức nơi mình làm việc, xã hội mà mình sống, quê hương mà mình mong nhớ. Thành công sẽ tự đi đến sau những giá trị đó.

...nếu chăm chăm vào đích đến, ắt sẽ sinh ra tâm lý muốn đi tắt đón đầu, tâm lý muốn vượt lên trên người khác bằng mọi giá, và chúng ta lại bỏ qua cơ hội nhìn ngắm rất nhiều cảnh sắc đẹp trên đường đi, mà đó mới chính là những giá trị của chuyến đi]

Nguồn: Khơi gợi tiềm năng ngủ yên của giới trẻ - Trương Nguyện Thành [tuoitre]
-----

Ý kiến của tác giả Trương Nguyện Thành về giáo dục đại học hiện nay:

- Cần nhận diện sản phẩm đầu ra là gì? từ đó mới biết được cần làm gì để có được sản phẩm như vậy?

- Xác định được sinh viên ra trường sẽ làm ở phân khúc nào của thị trường lao động?

- Giảng viên và mô hình vận hành: [“Giáo dục sẽ có thay đổi rất lớn, không còn đơn giản sinh viên lên giảng đường và nghe giảng viên nói. Nếu như bây giờ mà giảng viên cứ ngồi đấy và cứ đem những bài giảng từ cả 20 năm nay xào đi xào lại thì như thế là các anh chị đang tự đào thải chính bản thân mình”, GS Thành nhấn mạnh.

Khi đề cập đến chuyện thay đổi, GS khuyên mỗi giảng viên nên thay đổi từ từ. “Giảng viên cần có những lớp đào tạo để làm quen, gặp gỡ và học hỏi từ những người đã từng có kinh nghiệm giảng dạy sáng tạo dựa trên công nghệ. Bởi giảng viên cần có cơ hội để nâng cao, thay đổi khả năng giảng dạy vì thế hệ trẻ bây giờ rất nhạy công nghệ. Bên cạnh đó, nên ứng dụng thêm mô hình cho sinh viên tự học, đưa cho sinh viên những bài tập để sinh viên lên thế giới mạng nghiên cứu tìm câu trả lời. Và cần có những lớp học mẫu, vì nếu để cho tất cả giảng viên đồng loạt làm thì họ sẽ không biết phải làm thế nào. Nên có những lớp mẫu để tạo cơ hội cho những giảng viên đã có kinh nghiệm làm và từ đó sẽ lan rộng mô hình ra”, GS khuyên.

Vấn đề thứ 4 theo GS Thành là sáng tạo trong vận hành. “Thường các doanh nghiệp khởi nghiệp hay các trường đại học quen những thói quen là bắt đầu từ những nhóm nhỏ rồi phát triển lên. Từ lúc đầu chỉ có 10 người, nhân lên 50 người, 100 người,… Nhưng khi lớn mạnh lên lại đem những quy trình vận hành lúc chỉ có 10 người áp dụng cho mô hình cả 200 người thì không ổn chút nào”.]

Nguồn: GS Trương Nguyện Thành: Sáng tạo hay là chết? [thanhnien.vn][đọc]
-----

"Muốn ĐH trở thành nơi sáng tạo ra tri thức mới thì những nhà khoa học, những người quản lý khoa học phải biết được hướng nghiên cứu của thế giới về vấn đề đó, lĩnh vực đó trong những năm tới ra sao. Họ tiếp xúc, họ đưa về, họ mở ra những cái mới, đi theo hướng nghiên cứu mới.

“Vậy thì làm gì có bộ nào có thể làm được việc này. Các bộ liên quan chỉ có nhiệm vụ đưa ra những đơn đặt hàng. Đương nhiên, họ không phải là bộ chủ quản. Nhưng thực tế ở Việt Nam, bộ chủ quản có nhiệm vụ cấp tiền. Nên đương nhiên, bộ chủ quản giống như ông chủ. Họ có rất nhiều quyền, họ can thiệp vào công việc chuyên môn, can thiệp vào tổ chức. Vì bộ chủ quản can thiệp các vấn đề trên nên các trường ĐH coi như không có tự chủ” - GS Vũ Minh Giang khẳng định. Theo ông, không có bộ chủ quản gần như phải là hoạt động song hành với tự chủ giáo dục ĐH. Lúc đó, Bộ GD&ĐT cũng không phải là bộ chủ quản mà là cơ quan thay mặt chính phủ quản lý về mặt nhà nước lĩnh vực hoạt động này. "

Nguồn: Vì sao nhiều cơ sở Đại học 'sợ' tự chủ [tienphong.vn][đọc]
-----

Lê Viết Quốc - Google - Deep learning - AutoML

"Nghiên cứu của Quốc đặt nền móng cho AutoML, một bộ sản phẩm của Google được thiết kế cho các nhà phát triển có chuyên môn về machine learning và tài nguyên hạn chế. Google đã ra mắt AutoML Vision vào đầu năm nay. Tháng trước tại hội nghị Cloud Next của Google, công ty đã phát hành các công cụ dịch thuật và ngôn ngữ tự nhiên."

Nguồn: Lê Viết Quốc: Nhà nghiên cứu đứng sau AutoML của Google [cafef.vn][đọc]
-----

Ngưỡng mộ để thêm một chút động lực cho bản thân.

GS Đàm Thanh Sơn với giải thưởng Dirac [https://www.ictp.it]
Xem GS giảng bài [video-youtube]
----------
Mindset - cách tư duy mở
Chia sẻ của thầy Trương Nguyện Thành [video]
----------
Lấy về từ trang của bác THDũng.

"Daniela Rus: Rise of the robots: are you ready?
FINANCIAL TIMES,  6 tháng 3, 2018

Người Dịch: Nguyễn Xuân Tuấn

BẠN ĐÃ SẴN SÀNG CHO SỰ TRỖI DẬY CỦA RÔBỐT CHƯA?

Daniela Rus 

Nhà nghiên cứu rôbốt (roboticist) và trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence – AI) Daniela Rus từ Viện Công Nghệ Massachusetts - MIT (Massachusetts Institute of Technology) giải thích tại sao chúng ta cần hợp tác tốt hơn với nhau để cạnh tranh với trí tuệ nhân tạo.

Khi tôi là nhà nghiên cứu về rô bốt và trí tuệ nhân tạo, tôi thường nhận được một trong hai phản ứng: hoặc là họ tạo ra trò đùa về Kẻ Hủy Diệt (Terminator - Bộ phim do tài tử Arnold Schwarzenegger thủ vai) và “sự trỗi dậy của máy móc”, hoặc là họ phấn khích và hỏi tôi làm thế nào mà xe hơi của họ có thể tự lái được. Khi mà tôi chắc chắn mình thuộc về phản ứng thứ hai, tôi biết tầm quan trọng như thế nào để hiểu những lo lắng rất thực về những gì đã truyền cảm hứng để tạo trò đùa Kẻ Hủy Diệt. Đã làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học máy tính nhiều năm, tôi có thể tự tin nói rằng nỗi sợ về ngày tận thế từ trí tuệ nhân tạo bị thổi phồng quá đáng. Thậm chí với tất cả những tiến bộ chủ chốt được tạo ra trong lĩnh vực này hôm nay, không có bất kì nơi nào trí tuệ nhân tạo đến gần với con người ở các khía cạnh: nhận thức, tranh luận, thông tin, và sáng tạo. Nó thiếu trí tuệ xã hội và không thể kết hợp các ý tưởng không tương tự lại với nhau. Những hạn chế này sẽ khiến cho nó ở phía sau “suy nghĩ của con người”.
Ở cùng thời gian, tôi hiểu tính chính đáng liên quan tới sự dịch chuyển nghề nghiệp do tự động hóa, tôi nghĩ đó là điều đáng để nói về cách mà các công nghệ đang nổi lên sẽ ảnh hưởng tới kinh tế trong tương lai. Sự thực là bản chất công việc do sự phát triển từ công nghệ mới vẫn tiếp tục trên một vài công việc và tạo thêm nhiều thời gian hơn so với những công việc khácGiống như máy móc đã biến đổi thế giới nông nghiệp cách đây một thế kỉ, trí tuệ nhân tạo và rôbốt sẽ tác động một cách sâu sắc đến nhiều nghành công nghiệp hiện đại. Từ năm 1900, việc làm trong nghành nông nghiêp ở Mỹ đã giảm từ 40% xuống còn 2%. Sự chuyển dịch không còn bị nghi ngờ đối với các công nhân trong thời gian tới, nhưng cuối cùng thì nhiều người trong số họ sẽ tìm được những công việc khác phù hợp với kĩ năng mà họ có.
Tất nhiên, khó có thể hình dung các công việc mà công nghệ mới sẽ tạo ra. Cách đây một thập kỉ không ai dự đoán được nhiều loại nghề mới ngày nay, từ nhà phân tích phương tiện xã hội, nhà khoa học dữ liệu đến các nhà phát triển ứng dụng và thị trường di động. Gần một phần ba nghề mới không tồn tại (hoặc tồn tại không đáng kể) cách đây một phần tư thế kỷ.
Chế tạo rôbốt vốn khó khăn, buồn tẻ, và đắt tiền. Mỗi rôbốt được chế tạo bởi một cơ thể và một bộ não, nhưng rất ít người có cả kĩ năng chế tạo phần cứng cơ thể và kỹ năng lập trình cho bộ não. Gần đây, kỹ thuật in-3D (3D-printing) đã tạo ra rôbốt dễ dàng hơn với khoảng lựa chọn rất rộng, điều vốn trước đây chỉ có thể làm được từ nhà máy.
Nhóm nghiên cứu ở Phòng thí nghiệm Khoa học máy tính và Trí tuệ nhân tạo ở Viện Công Nghệ Massachusett (CSAIL) đang làm việc với các công cụ kỹ thuật để tự động thiết kế và chế tạo các rôbốt. Chúng tôi đang đến rất gần khả năng chế tạo ra các rôbốt làm việc dưới dạng tự do và đi bộ được bằng kỹ thuật in-3D.
Hiện tại những rôbốt mà chúng tôi tạo ra với thời gian hoạt động giới hạn và chỉ có thể làm được một số động tác đơn giản nhất như di chuyển một vật từ phòng này tới phòng khác. Nhưng với sự tiến bộ ở cả phần cứng và phần mềm, chúng thực sự đủ khả năng để vận chuyển hàng hóa trên một đoạn đường dài và di chuyển tới các vùng bị thiên tai để tìm kiếm các nạn nhân còn sống sót.
Tiến bộ then chốt khác cho việc sản xuất các rôbốt đến từ các vật liệu mềm. Hầu hết mọi người hình dung rôbốt gồm các khối kim loại cứng, nhưng rôbốt trong tương lai sẽ đến từ các dạng và vật liệu khác nhau. Manh mối cho điều đó đến từ thế giới động vật, hiện tại chúng tôi đang chế tạo các rôbốt bằng các vật liệu mềm, giãn như cao su, vải, thậm chí là thực phẩm và chất lỏng. Chúng ta được truyền cảm hứng bởi các động vật như loài mực chẳng hạn, chúng có thể di chuyển và vận động mà không cần khung xương, và các động vật xương sống như tắc kè có thể chạy bằng cách lưu giữ năng lượng đàn hồi trong xương và mô của chúng.
Vật liệu mềm cho phép rôbốt nhỏ hơn, an toàn hơn, và vững vàng hơn đối với rô bốt làm bằng cơ thể rắn, với các cấu trúc tùy biến cho phép leo trèo dễ dàng vào những chỗ cong, đổi hướng và chen vào những nơi chật chội. Nếu một rôbốt mềm va phải một thứ gì đó, nó ít khi bị vỡ hay gây thiệt hại và có thể được lập trình để dùng các va chạm này nhằm tích lũy thêm thông tin về môi trường xung quanh.
Đội nghiên cứu của chúng tôi đã phát triển các rôbốt mềm có thể bơi như cá, trườn như rắn và thậm chí nuốt để vá vết thương bên trong dạ dày người. Cách tiếp cận như vậy có thể là cuộc cách mạng cho phép phẫu thuật không xâm lấn, ít đau đớn và có rủi ro nhiễm trùng thấp hơn. Các rôbốt thậm chí có thể di chuyển theo những đường trong cơ thể để đưa các thuốc đáp ứng đặc biệt cho thể trạng riêng của bạn, loại bỏ các mẫu thử sai trong nhiều kế hoạch điều trị.
Bên cạnh việc xây dựng cơ thể tốt hơn cho rôbốt, chúng ta cũng phải nâng cấp “bộ não” của chúng - ở đây chúng ta hiểu rằng “bộ não” là chương trình cho phép các rôbốt thực hiện các công việc với sự nhanh nhẹn và linh hoạt. Rôbốt ngày nay là một loại thủ thuật: Roomba (một loại rôbốt lau nhà) không thể lau sạch tấm thảm của bạn và Alexa (trình trợ lý ảo về giọng nói của Amazon) không thể mua thức ăn cho bạn (Chú thích của người dịch - ở đây tác giả hoặc ban biên tập đã nhầm mà ghi ngược lại về Roomba và Alexa). Để bắt chúng làm những việc thậm chí đơn giản nhất, bạn phải giải thích tỉ mỉ các hướng dẫn về kích thước, hình dạng, chức năng chính xác cho chương trình của chúng – Điều không dễ gì có được ở các nhà lập trình không chuyên nghiệp.
Để đáp ứng những yêu cầu trên, các nhà nghiên cứu ở CSAIL và các nơi khác đang làm việc để phát triển các phương pháp cho phép rôbốt phản ứng đối với các tình huống mà chúng không được lập trình hóa một cách rõ ràng, với giao diện thân thiện với người dùng cho phép bạn đưa các nhiệm vụ mà bạn muốn cho rôbốt làm.
Công nghệ và con người không phải cạnh tranh với nhau. Máy móc tốt hơn để làm những thứ giống như: xử lí số, ghi nhớ dữ liệu. tìm các mẫu, nâng các vật nặng, di chuyển chính xác; con người là tốt hơn trong các nhiệm vụ gồm: sáng tạo, suy nghĩ trừu tượng, và biến đổi. Cộng tác với hệ thống trí truệ nhân tạo, chúng ta có thể tăng và khuếch đại nhiều khía cạnh công việc và cuộc sống. (Đây là những thứ chúng tôi đặt vào trọng tâm ở Viện Công Nghệ Massachusett – Năm nay chúng ta công bố Điều tra trí thông minh MIT (MIT Intelligence Quest), một sáng kiến mới tập trung vào sự cộng tác giữa Trí tuệ nhân tạo và con người).
Có một trường hợp đặc biệt: sự tiến bộ trong xử lí ngôn ngữ tự nhiên (NLP) đã cho phép máy móc vượt qua sự nhận biết từ đơn, điều này cho phép Siri (một trình trợ lý ảo của Apple) và Alexa thông báo hướng lái xe và mua hàng hóa. Chẳng bao lâu nữa các trình trợ lý ảo này sẽ đọc và tổng hợp một lượng khổng lồ các thông tin được viết ra, gồm toàn bộ sách trong thư viện. Các công cụ mới này sẽ đóng vai trò sáng giá trong việc trợ giúp các bác sĩ, luật sư và các chuyên gia khác trong việc ra các quyết định.
Ví dụ như, các nhà nghiên cứu ở MIT đã hợp tác với các bệnh viện để phát triển các hệ thống trí tuệ nhân tạo có thể giúp đỡ các bác sĩ xác định ung thư vú tốt hơn. Phương pháp sử dụng trí tuệ nhân tạo chẩn đoán chính xác 97% các ca ung thư vú ác tính và giảm số ca phẫu thuật lành tính xuống còn hơn 30%, so với các phương pháp mà các bác sĩ đang dùng. Trí tuệ nhân tạo sẽ không thay thế các bác sĩ: chúng không thể ngồi với bệnh nhân để trao đổi về các triệu chứng hay đưa ra các kế hoạch điều trị. Tuy nhiên, chúng có thể giúp các bác sĩ đưa ra các chẩn đoán đúng và nhận ra tất cả các lựa chọn điều trị có thể - điều này sẽ giải phóng các các sĩ để họ dành nhiều thời gian hơn cho các bệnh nhân.
Những tiến bộ này đặt ra một vài câu hỏi quan trọng. Làm thế nào để chúng ta chuẩn bị tất cả các thành phần xã hội cho sự trỗi dậy của máy móc trong tương lai? Loại nghề nghiệp nào chúng ta nên sẵn sàng cho 25 năm tới ? Hoạt động thực tế nào sẽ bị tự động hóa và loại nghề có giá trị cao nào chúng ta cần để có thể làm trong thời gian tới?
Các phê phán thường trích dẫn sự dịch chuyển nghề nghiệp như là một nguyên nhân làm nản lòng các nghiên cứu trí tuệ nhân tạo đi xa hơn. Nhưng lịch sử thịnh hành với các cách tân đã bị phá vỡ: Đã có ai nhìn lại và hối tiếc về phát minh ra máy tỉa hạt bông của Eli Whitney hay phát minh ra động cơ hơi nước của James Watt? Giống như bất kì công nghệ nào, trí tuệ nhân tạo không mang trong mình bản chất tốt hay xấu. Như đồng nghiệp của tôi ở MIT Max Tegmark thích nói “Câu hỏi không phải là liệu bạn là người “ủng hộ” hay “chống lại” trí tuệ nhân tạo – điều này chẳng khác nào bạn hỏi tổ tiên chúng ta “ủng hộ” hay “chống lại” lửa”.
Nếu lửa là điều không thể tránh khỏi, làm thể nào chúng ta đối xử khi nó không còn chắc chắn. Tôi không tin chúng ta có thể (hoặc nên) ngừng thúc đẩy sự phát triển của công nghệ, chúng ta phải nghĩ tới làm thế nào để tích hợp trí tuệ nhân tạo vào cuộc sống chúng ta và chuẩn bị cho các loại công việc mới. Các công ty đang dành các nguồn lực chủ chốt để đào tạo và đào tạo lại, Google cam kết dành 1 tỷ đô la để đào tạo các kỹ sư công nghệ cao dạy lập trình cho các thợ mỏ nghành than để họ không bị thất nghiệp.
Các đại học giống như MIT cũng đang tiến hành để xử lí các kĩ năng thiếu hụt bằng cách đưa ra các khóa học trên mạng miễn phí ở hầu hết các lĩnh vực. Giáo dục trực tuyến là một tấm gương điển hình cho nỗ lực dịch chuyển. Hàng thế kỉ qua, chúng ta có cách tiếp cận tiếp diễn trong giáo dục và công việc, theo đó con người học rồi gia nhập thị trường lao động. Trong tương lai, việc học và làm sẽ trộn lẫn vào nhau, các công nhân phải tự học liên tục để giành lấy các kĩ năng tương ứng với yêu cầu nghề nghiệp của họ.
Bồi thẩm đoàn vẫn quyết định loại chương trình nào sẽ thành công và họ có thể xử tốt như thế nào, nhưng họ là một phần của những gì mà các nhà công nghệ và các nhà tạo lập chính sách đang thảo luận để đảm bảo rằng chúng ta vẫn ở vị trí cao nhất trong các viễn cảnh kinh tế đang thay đổi.
Cá nhân tôi rất phấn khích về nhiều thay đổi mà trí tuệ nhân tạo sẽ mang lại. Trong một thế giới mà dữ liệu ở vị trí trung tâm đang gia tăng, máy tính có thể làm nhiều hơn để nâng cao cuộc sống của con người hơn những gì chỉ có con người làm. Chúng có thể giúp chúng ta di chuyển an toàn hơn, nhanh hơn, nâng cao khả năng chẩn đoán và điều trị dịch bệnh, mở ra các cách tiếp cận mới về giáo dục, năng lượng và an ninh mạng.
Các thuật giải đang giúp chúng ta đưa ra các hiểu biết then chốt về các thử thách lớn nhất của thế giới: hiểu biết tốt hơn về thay đổi khí hậu bằng cách phân tích dữ liệu của các cảm biến từ đại dương, lượng mưa, khí quyển; phân phối thức ăn dư thừa tới nhưng nơi cần nó; dự đoán và đối phó với các thảm họa thiên nhiên bằng cách dùng hệ cảm biến - mạng trực tuyến; và nhiều hơn nữa.
Rồi máy tính còn giúp chúng ta các công việc tư duy, các rôbốt sẽ giúp chúng ta các công việc sử dụng cơ bắp. Xe tự lái sẽ giảm các rủi ro trên đường và cho phép chúng ta đến bất kì đầu trong bất kì thời gian nào. Xe nhặt rác sẽ tự điều khiển và tự nhặt rác vào thùng của chúng. Máy móc sẽ giải phóng chúng ta khỏi các công việc chán, bẩn và nguy hiểm (3D) – Các công việc 3D này trong xây dựng, khai mỏ, năng lượng hạt nhân và phản ứng khẩn cấp sẽ bị rôbốt hóa. Kết quả là chúng ta có thể tập trung sức lực hơn vào các kĩ năng sáng tạo và liên nhân cách, điều mà chúng ta không thể sao chép cho máy tính.
Năm 2015 gần 5,5 triệu rôbốt tiêu dùng được bán; tới năm 2019 lượng bán được mong đợi sẽ tăng hơn 42 triệu chiếc. Trong khi đó rôbốt cá nhân vẫn còn cách chúng ta khoảng vài thập kỉ nữa, vượt qua một vài trở ngại then chốt chúng ta có thể sử dụng chúng nhanh hơn bạn nghĩ.
Cách đây hơn hai thập kỉ, máy tính được dành riêng cho các chuyên gia bởi vì chúng quá lớn, đắt đỏ và khó khăn để truy cập. Bây giờ thì mọi người đều có một chiếc điện thoại thông minh và điện toán đã trở nên một thứ thông thường. Tôi tin rằng 20 năm tới sẽ mở ra những sự thay đổi sâu sắc với trí tuệ nhân tạo và rôbốt. Điện thoại đã phổ cập công nghệ điện toán; trí tuệ nhân tạo và rôbốt có khả năng phổ cập các công việc nhận thức và tay chân. Chúng sẽ giải phóng chúng ta khỏi các công việc chán, bẩn và nguy hiểm và tạo nên một thế giới tốt hơn.
Rôbốt ngày nay dường như đã trở thành đối tác trong công nghiệp và gia đình. Chúng làm việc bên cạnh con người trong các nhà máy và phòng mổ. Chúng có thể cắt cỏ, lau nhà, và thậm chí là vắt sữa bò. Tôi tin rằng trong một vài năm tới rôbốt sẽ len lỏi vào mọi phần trong cuộc sống của chúng ta.
Máy tính dường như đã hỗ trợ hoàn toàn thế giới của chúng ta nhưng vẫn còn rất nhiều việc con người có thể làm. Với sự khéo léo và hiểu biết, các nhà công nghệ đang làm việc để biến khoa học viễn tưởng thành khoa học, khoa học thành sự thật. Tôi mong chờ trở thành một phần của sự trỗi dậy đầy phấn khích này – đặc biệt là một chiếc xe tự lái dành cho tôi."
----------

Sự suy thoái của Thế hệ trẻ hay sự chuyển dịch Hệ hình tư duy?
Bookhunter
10:46' SA - Thứ tư, 17/01/2018

Nhiều người cho rằng thế hệ trẻ là một thế hệ vứt đi, văn hóa đọc xuống cấp, nghệ thuật – tư tưởng đang trên đà suy thoái. Điều này có đúng hay không? Đó có thể chỉ là góc nhìn tiêu cực đầy định kiến. Book Hunter đã có dịp thực hiện một bài phỏng vấn PGS – TS phê bình văn học Đỗ Lai Thúy, tác giả của các cuốn phê bình văn học như “Mắt Thơ”, “Bút pháp của ham muốn”, “Thơ như là Mỹ học của cái Khác” về vấn đề này. Trong tác phẩm mới xuất bản năm 2012 “Thơ như là Mỹ học của cái Khác”, ông Đỗ Lai Thúy đã có nhắc đến sự chuyển dịch Hệ hình tư duy và ông cho rằng những hiện tượng xung đột giữa các thế hệ hiện nay là dấu hiệu của một cuộc chuyển dịch lớn.

Book Hunter: Trước hết, rất mong ông có thể giúp các bạn đọc hiểu Hệ hình tư duy là gì? Loài người đã trải qua bao nhiêu Hệ hình tư duy? Và hiện nay Việt Nam của chúng ta đang ở trong Hệ hình tư duy nào?

PGS-TS Đỗ Lai Thúy: Tôi phân chia Hệ hình tư duy dựa vào hệ hình văn hóa. Trong văn hóa có 3 hệ hình: Tiền Hiện đại, Hiện đại và Hậu Hiện đại. Quy chiếu sang tư duy sẽ có Tư duy Tiền Hiện đại, Hiện đại và Hậu hiện đại. Ở thế giới phương Tây, các hệ hình này chuyển dịch một cách kế tiếp, tức là hệ hình này kết thúc thì sẽ chuyển sang một hệ hình khác: Hệ hình Tiền Hiện đại kết thúc rồi đến hệ hình Hiện Đại, sau đó mới đến Hệ hình Hậu hiện đại. Ở Việt Nam, các hệ hình này không nối tiếp nhau mà “gối tiếp nhau”. Chính sự gối tiếp đó, tạo ra sự đồng tồn, các hệ hình cùng tồn tại song song với nhau. Cùng một lúc, trong xã hội nước ta hiện nay, tồn tại cả Hệ hình Tiền Hiện đại, Hiện đại và Hậu Hiện đại. Trong đó, Hệ hình Tiền Hiện đại vẫn giữ vai trò chủ đạo, ở vị trí trung tâm và có khả năng chi phối các Hệ hình khác.

Khi phân định các hệ hình, chúng ta cần phân định ở mặt chủ yếu nhất. Mỗi giai đoạn lịch sử đều nổi lên một vài mặt chủ yếu nhất. Tuy nhiên, vẫn có thể có các ngoại lệ, các cá nhân không theo hệ hình của thời đại mình đang sống và nằm ở ngoại vi. Nhiều học thuyết có hơi hướng Hiện đại, thậm chí là Hậu hiện đại xuất hiện ở thời kỳ của Tiền Hiện đại, nhưng đó không phải là chủ đạo.


PGS-TS, nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy: Sinh năm 1948 tại Sơn Tây, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội. Sau xuất lính 10 năm, ông về làm biên tập tại NXB Ngoại văn (Thế giới), sau đó phụ trách tạp trí Etudes Vietnamiennes, rồi chuyển sang tạp chí Văn hoá Nghệ thuật làm Phó Tổng biên tập.

Book Hunter: Vậy biểu hiện của các Hệ hình này như thế nào và lấy tiêu chuẩn nào để phân định các Hệ hình?

PGS- TS Đỗ Lai Thúy: Nếu chia ra thành các hệ hình văn hóa lớn, ta có thể thấy rằng văn hóa ở cấp độ tổng thể luôn thể hiện trình độ phát triển của loài người. Tiêu chí để phân biệt các Hệ hình phải tương ứng với cấp độ của văn hóa, bởi thế tiêu chí ở đây là quan niệm thực tại.

Tiền Hiện đại có quan niệm rằng Thế giới xung quanh ta là một thế giới khách quan tồn tại độc lập với ý thức của con người. Ý thức của con người phản ánh thực tại đó một cách trung thực.

Đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khi thuyết tương đối của Einstein và thuyết Lượng tử ra đời thì quan niệm về thế giới ấy bị sụp đổ. Thế giới chúng ta đang sống, theo quan niệm Tiền Hiện đại, được tạo nên bởi vật chất, mà vật chất được cấu thành bởi các hạt nguyên tử. Cuối cùng, các nhà khoa học khám phá ra rằng nguyên tử không phải là các hạt rắn đặc mà là hạt rỗng. Trong nguyên tử còn rất nhiều các hạt hạ nguyên tử, các hạt hạ nguyên tử nảy sinh hoặc biến mất trong một chớp mắt. Bởi thế, nguyên tử không còn nữa, vậy nên có thể coi rằng vật chất không có thật. Một quan điểm nữa dẫn dến nhận định thế giới này không thực sự có thật. Trước đây, các nhà khoa học đều cho rằng kết quả nghiên cứu thế giới là khách quan, thế nên người nghiên cứu không có vai trò tác động đến kết quả; nhưng sau đó thì họ nhận ra rằng kết quả nghiên cứu bị tác động bởi chính người nghiên cứu, nói ngắn gọn là cái vốn dĩ khách quan giờ đây không còn khách quan nữa, cái khách thể giờ đây có sự tham gia của chủ thể. Với một quan niệm thực tại như vậy, con người bước vào thế giới Hiện đại. Như thế có nghĩa là thế giới khách quan mà con người cảm thấy bằng giác quan trong tính liên tục giờ đây đã bị vỡ. Những người chịu ảnh hưởng quan niệm về thế giới của Hệ hình Hiện đại thấy rằng cần phải có một điều gì đó có thể hàn gắn thế giới. Sự hàn gắn này không chỉ nằm ở bề mặt, mà còn nằm ở bề sâu, mà chủ nghĩa cấu trúc là một ví dụ. Cấu trúc là một thứ rất vô hình, nhưng bằng cấu trúc đó, các mảnh vỡ sẽ được thống nhất với nhau. Trong bản thể của con người, cái vô thức được tìm ra với mục đích gắn kết những mảnh vỡ trong tâm trí con người với nhau. Vì thế, trong thế giới Hiện Đại, người ta đi tìm tổng thể mà tổng thể lại vô hình.

Từ năm 1960 trở đi, có một quan niệm rằng thế giới tồn tại rất nhiều các khả năng, khi ý thức con người va chạm với một trong các khả năng đó thì khả năng trở thành thế giới như chúng ta thấy hiện nay. Điều đó có nghĩa là có đồng thời song song nhiều thế giới và một người có thể tham gia vào nhiều thế giới khác nhau. Mỗi khi tham gia vào một thế giới thì con người lại có một cái Tôi, nhưng khi tham gia vào thế giới khác thì con người lại có một cái Tôi khác… Điều này dẫn đến một con người có rất nhiều cái Tôi. Đây chính là quan niệm thực tại của Hậu Hiện đại. Lúc bấy giờ, thế giới tồn tại 2 trường phái Vật lý. Một trường phái cho rằng dù thế nào cũng vẫn tồn tại một thế giới khác quan, có điều con người chưa nhận thức được nó, và càng hiểu biết thì càng tiếp cận gần hơn với thế giới khách quan. Ngay cả Einstein cũng có quan niệm như vậy. Nhưng trường phái đối lập là lượng tử thì cho rằng không có thế giới khách quan mà thế giới chỉ là những khả năng và có nhiều thế giới chồng chéo lên nhau.



Book Hunter: Theo ông, sự phân định các Hệ hình này đang diễn ra ở Việt Nam như thế nào?

PGS – TS Đỗ Lai Thúy: Ở xã hội Việt Nam hiện nay tồn tại song song cả 3 hệ hình mà chủ đạo lại là Tiền Hiện đại và có khả năng chi phối 2 hệ hình còn lại. Khi tồn tại một lúc cả 3 hệ hình như vậy thì xã hội sẽ có xu hướng lấy tiêu chí của hệ hình này để đánh giá hệ hình kia. Ví dụ như các họa sĩ có tư duy theo Hệ hình Tiền Hiện đại thì sẽ không thể cảm nhận được tranh Picasso, bởi tranh Picasso không mô tả thế giới khách quan mà bằng trường phái lập thể ông đã cấu trúc hóa lại thế giới. Vì thế, đúng như bây giờ dư luận đang nói, xã hội Việt Nam đang rơi vào tình trạng “loạn chuẩn”. Một cách công bằng mà nói, thành tựu nghệ thuật không có cao và thấp, không có hơn kém, bởi vì các tác phẩm ở các Hệ hình khác nhau thì sẽ có các tiêu chuẩn khác nhau. Vì thế, để đánh giá một tác phẩm, chúng ta phải đặt mình vào Hệ hình của nó. Một tác phẩm hay thuộc Hệ hình Tiền Hiện đại đương nhiên còn giá trị hơn rất nhiều so với tác phẩm dở của Hậu Hiện đại.

Book Hunter: Có phải các nhà Cách tân ở Việt Nam hiện nay đều đang hướng đến Hệ hình Hiện đại? Vậy còn số phận Hậu Hiện đại thì đang ra sao?

PGS TS Đỗ Lai Thúy: Đúng. Ví dụ như trong Hội họa hiện nay, các họa sĩ Việt Nam đang đi theo hướng Lập Thể, đó chính là xu hướng cấu trúc lại, xu hướng của Hiện đại. Sự thay đổi đó rất khó vì chúng ta đã có những cái chuẩn trong hệ hình Tiền Hiện đại, dù là hội họa hay văn chương, và cái chuẩn ấy đang định hướng xã hội.Tâm lý con người nói chung thường cho rằng những tác phẩm chuẩn mực và kinh điển có sức sống muôn đời nên những người đi sau phải dựa vào đó. Chúng ta không phủ nhận được các thành tựu nghệ thuật Tiền Hiện đại, nhưng nếu đặt thành tựu ấy không đúng chỗ thì những chuẩn mực ấy lại trở thành lực cản cho sự phát triển.

Hậu Hiện đại vào Việt Nam còn phức tạp và gặp nhiều khó khăn hơn. Nguyên nhân là bởi Hậu Hiện đại là một trào lưu văn hóa chưa định hình, hoặc thậm chí có khả năng là sẽ không định hình. Bởi thế, người nào cũng có quyền có định nghĩa Hậu Hiện đại cho riêng mình. Ở Việt Nam, quá trình tiếp nhận Hậu Hiện đại thông qua rất nhiều hướng khác nhau. Ví dụ như ông Hoàng Ngọc Hiến thì gói gọn Hậu Hiện đại trong “tính dục, vô liêm sỉ và trộn lẫn văn hóa cao thấp”. Có người khác lại coi Hậu Hiện đại là chống lại đại tự sự. Vì lý do này, Hậu Hiện đại không được chính thống ủng hộ. Chính bởi vì các tác giả Việt Nam đa phần không hiểu Hậu Hiện đại ở khía cạnh Triết học mà chỉ hiểu ở góc độ thủ pháp thế nên người ta thấy rằng Hậu Hiện đại không có gì mới, thậm chí còn có vẻ như giống với Tiền Hiện đại. Thế nên, dư luận hoặc là không chấp nhận hoặc là coi thường Hậu Hiện đại. Tuy nhiên, nếu đặt Hậu Hiện đại trong một cơ sở triết học (như đã nói ở trên) thì sẽ thấy rất khác. Bên cạnh đó, Hậu Hiện đại có nhiều yếu tố từ Hiện đại, vì các mầm mống của Hiện đại đã có sẵn trong Hậu Hiện đại rồi. Ví dụ như giễu nhại hay cắt dán thì đã có từ thời của chủ nghĩa Dada. Có nhiều người cho rằng không có Hậu Hiện đại mà chỉ có Hiện đại hậu kỳ, tiêu biểu nhất cho lập luận này là ông Nguyễn Văn Dân.

Trong một bối cảnh như thế, từ Tiền Hiện đại sang Hiện đại vẫn khó khăn hơn Hiện đại sang Hậu Hiện đại bởi vì sự chuyển dịch đầu tiên cần có sự thay đổi thủ pháp rất lớn. Từ Hiện đại sang Hậu Hiện đại, sự chuyển dịch có phần dễ dàng bởi có nhiều sự tương đồng. Chính vì sự dễ dàng ấy nên nhiều tác giả, thậm chí cả nhà văn Nguyễn Huy Thiệp cũng lao vào cuộc chuyển dịch này, nhưng thực chất có chuyển dịch được hay không thì lại là vấn đề khác. Thế nhưng, hiện nay số đông đều nghĩ rằng chuyển dịch từ Hiện đại sang Hậu Hiện đại rất dễ bởi vì chỉ cần thay đổi một vài thủ pháp sáng tác, bởi thế các nhà văn, nhà thơ ào ạt chuyển sang Hậu Hiện đại, thế nhưng những cái chuyển đó chỉ mang tính hình thức, bởi chừng nào chưa có được quan niệm thực tại của Hậu Hiện đại thì chưa thể gọi là viết theo Chủ nghĩa Hậu Hiện đại.

Book Hunter: Theo ông có phải chính Internet đã góp phần thúc đẩy Hậu Hiện đại phát triển?

PGS TS Đỗ Lai Thúy: Nhờ có Internet, thế hệ trẻ ở Việt Nam có thể nhanh chóng tiếp xúc được với thế giới và cập nhật được thông tin đa dạng, đa chiều. Điều này khác hoàn toàn với thế hệ trước. Các thế hệ trước thường suy nghĩ theo một kênh định sẵn, người nào phá phách thì cũng chỉ phá phách trong kênh của mình, cùng lắm chỉ nới rộng đường biên của kênh ấy, kể cả có cố gắng đảo ngược dấu thì người đó vẫn ở trong giới hạn đó. Nhưng ở thế hệ trẻ, các bạn không mất nhiều công sức để có thể nhảy từ kênh này sang kênh khác, hay nói một cách khác là có thể tham gia cùng một lúc nhiều kênh khác nhau.

Điều đột phá diễn ra khi có nhiều bạn trẻ không xuất thân trong các ngành Khoa học Xã hội & Nhân văn mà từ nhiều lĩnh vực khác như Khoa học, Công nghệ, Kinh tế… nhưng lại đọc rất nhiều sách về các lĩnh vực này và có khả năng tiếp cận những tri thức mới mà không bị giới hạn bởi các định kiến do sự chuyên nghiệp tạo ra. Thường những người ở trong ngành lại khó khăn cho việc tiếp thu những điều mới bởi vì để có được chuyên môn họ phải trải qua một quá trình bị đào tạo từ thời phổ thông cho đến đại học, dần dần hình thành định kiến. Để có thể tiếp thu được cái mới, họ cần sự chuyển mình rất lớn và không dễ dàng gì.

Qủa là tất cả các ưu thế của Internet đã thúc đẩy Hậu Hiện đại diễn tiến nhanh hơn.

Book Hunter: Nhiều người cho rằng Văn hóa đọc hiện giờ đang xuống cấp. Ông đánh giá sao về nhận định này?

PGS TS Đỗ Lai Thúy: Không thể nói rằng Văn hóa đọc bây giờ kém hoặc không thích đọc, mà chúng ta nên nói rằng người đọc bây giờ bị phân hóa. Người đọc hiện nay rất đông đảo và có sự phân hóa rõ ràng, đây không phải điều đáng lo mà đây là một hiện tượng lành mạnh. Trong số những người đọc ấy dần dần sẽ hình thành những người đọc cao cấp có thể đọc được các sách mang tính học thuật và tri thức mới.

Các thống kê điều tra về số người đọc đều không chính xác vì khi khảo sát người ta đa phần chỉ có thể khảo sát những người mua sách giải trí, còn những người đọc sách học thuật thường không lồ lộ ra để họ có thể khảo sát. Hơn thế nữa, một độc giả theo kiểu tư duy Hậu Hiện Đại vẫn có thể vừa đọc sách giải trí vừa đọc sách học thuật mà vẫn rút ra được các giá trị cho riêng mình. Nên các thống kê đến giờ không còn chính xác và không thể dựa trên các thống kê ấy để nói rằng văn hóa đọc xuống cấp.

Bạn đọc thời xưa thường thống nhất với nhau cao bởi vì họ có cùng một kênh đọc, thế nên khi một quyển sách được xuất bản thì sẽ có số lượng người đọc rất lớn. Do vậy, những nhà quản lý, thẩm định, thậm chí Nhà xuất bản và tác giả đều tưởng rằng văn hóa đọc thời trước cao hơn bây giờ. Chính có sự phân hóa mới là tốt. Vấn đề ở đây là làm sao để gia tăng số người đọc cao cấp lên và làm sao để những người đọc ấy có một hiệu ứng nào đó tác động tới xã hội. Bởi vì xã hội Việt Nam hiện nay không có tầng lớp ưu tú (elite). Ở một xã hội văn minh bao giờ cũng phải có một tầng lớp ưu tú để tạo ra các chuẩn văn hóa cho xã hội. Cụ thể hơn, sẽ có những tác phẩm (sách, tranh, phim ảnh, nghệ thuật trình diễn …v…v…) không nhất thiết dành cho số đông mà chỉ dành cho tầng lớp ưu tú, họ có vai trò thẩm định các tác phẩm này và lúc ấy ngay cả truyền thông đại chúng hay số đông người đọc cũng phải tôn trọng sự thẩm định của họ. Như vậy sẽ tránh được tình trạng “hoa sen xuống dưới, bèo trèo lên trên” như hiện nay. Điều đáng tiếc là hiện nay những người đọc cao cấp chưa tạo ra được hiệu ứng xã hội vì họ chỉ đọc và biết với nhau thôi. Nếu hiệu ứng xã hội được tạo ra, văn hóa đọc của chúng ta chắc hẳn sẽ đi theo hướng lành mạnh hơn.

Book Hunter: Nhưng ông có nghĩ rằng với tình trạng “loạn chuẩn” hiện nay, tầng lớp elite hình thành sẽ khó hơn?

PGS TS Đỗ Lai Thúy: Để hình thành tầng lớp tinh hoa thì trước hết cần phải có sự phân hóa xã hội. Trước năm 1945, các tầng lớp trong xã hội được phân hóa rất rõ ràng: nông dân, công nhân, trí thức, quan chức, binh lính, thương gia… ;và người ta có thể nhận biết các đặc trưng của tầng lớp dễ dàng thông qua trang phục, thái độ, kiến thức, lối sống… Nhưng sau Cách mạng và các cuộc cải cách, các đặc trưng này bị xóa nhòa do sự nhầm lẫn giữa thái độ và đối xử bình đằng với việc cào bằng tất cả mọi tầng lớp. Nhiều người nông dân, công nhân lại ngồi vào vị trí của thương gia, quan chức thậm chí là trí thức… vậy nên dù địa vị xã hội được xác lập nhưng thái độ, kiến thức, tư duy… lại chưa theo kịp. Quãng thời gian để “theo kịp” có lẽ cần vài thế hệ để sự phân hóa mang tính ổn định, khi trình độ văn hóa tương ứng với địa vị.

Mặc dù tầng lớp ưu tú đa phần xuất thân từ giai cấp thượng lưu nhưng tầng lớp ưu tú vẫn là một tầng lớp phi giai cấp. Không có nghĩa những người thượng lưu là những người ưu tú. Những người ưu tú thậm chí xuất thân từ các giai cấp thấp hơn, nhưng trước tri thức các con người đều bình đẳng.

Book Hunter: Có vẻ như trong xã hội hiện thực, chúng ta đi theo Tiền Hiện đại, nhưng trong tư tưởng lại diễn ra bước chuyển dịch sang Hậu hiện đại?

PGS- TS Đỗ Lai Thúy: Đó là một sự thay đổi quan niệm lớn trong xã hội. Mỗi lần sự chuyển dịch diễn ra thường dẫn đến những sự xung đột vô cùng lớn. Bởi không phải ai cũng chấp nhận sự chuyển dịch này. Một người thường bị gắn bó chặt chẽ với Hệ hình cũ bởi quá trình tiếp nhận kiến thức từ bé cho đến lớn, gắn bó bởi các thành tựu, quyền hành, lợi ích mà bản thân có được do đi theo Hệ hình cũ. Không dễ gì để một người theo Hệ hình tư duy cũ có thể thoát khỏi cái Tôi của chính mình, vì khi thay đổi quan niệm, có thể rằng họ sẽ mất hết cả sự nghiệp và thành tựu. Chỉ có những người nào dũng cảm, yêu mến sâu sắc Sự Thật thì mới có đủ dũng cảm để vứt bỏ những quan niệm cũ của mình để tìm hiểu cái mới. Tuy nhiên, thế hệ trẻ mà cụ thể là tầng lớp 8X, 9X có sự thuận lợi hơn bởi các bạn chưa có những sự ràng buộc chặt chẽ với Hệ hình cũ như những người đi trước.

Lý thuyết Hệ hình giúp chúng ta nhìn thế giới trong sự vận động, mô tả được vận động đó mà không sợ những sự đứt đoạn giữa các thế hệ. Bởi chính sự đứt gãy là những dấu hiệu cho sự thay đổi. Để đánh giá về 8X, 9X, nếu những người đi trước đứng trên cơ sở của quan niệm Tiền Hiện Đại, thậm chí là Hiện Đại thì sẽ thấy các bạn trẻ đúng là một Thế hệ vứt đi. Nhưng nếu những người thuộc thế hệ của tôi nhìn họ như những con người thuộc Hệ hình tư duy mới thì sẽ thấy sự khác biệt ở họ là một hiện tượng đầy tích cực.

Trong xã hội kinh nghiệm Tiền Hiện đại, các tầng bậc tôn ti trật tự phần nhiều dựa vào tuổi tác. Xã hội kinh nghiệm quan niệm rằng những người càng lớn tuổi thì càng có nhiều kiến thức, càng sáng suốt và họ có vai trò dẫn dắt đám trẻ. Nhưng ở xã hội hiện đại, tuổi tác trở thành cản trở. Người càng già đi bao nhiêu, sự tiếp thu cái mới càng kém hơn. Vì thế, đứng ở góc độ mới thì giới trẻ lại giữ vị trí tiên phong. Trong giới học thuật hiện nay, nhiều học giả vẫn còn giữ thái độ cha chú để đánh giá về giới trẻ, đây thật sự là một sai lầm. Chúng ta có thể thấy, nhiều trí thức cứ cố gắng gắn tên tuổi của mình với thế hệ khác, chẳng hạn như nhận mình là học trò của các học giả lớn đã quá cố và đi đâu cũng vỗ ngực tự hào về điều này, hoặc cố gắng phấn đấu để giỏi hơn thày; trong khi với các học giả trẻ thì họ lại tách biệt và có phần nào coi thường.

Nhưng thực tế là trong giai đoạn chuyển dịch, các học giả đi trước càng tiếp xúc và học hỏi từ những người đi sau thì lại càng khá. Trong lịch sử Việt Nam đã có hiện tượng này, ví dụ như ông Trương Vĩnh Ký, cùng thế hệ với Phan Đình Phùng – những nhà Nho khởi nghĩa, nhưng lại có tư tưởng cùng với thế hệ sau đó là “đám trẻ” Phạm Quỳnh, Phan Chu Trinh… và ông trở thành người đi trước thời đại. Hay như ông Nguyễn Văn Vĩnh sinh ra cùng thời với Phạm Quỳnh, Phan Chu Trinh nhưng lại có tư tưởng hiện đại hóa đất nước theo hướng Âu Châu mà Nhất Linh đề ra. Họ đều là những người vượt trước thời đại nhờ quyết định đồng hành với thế hệ trẻ. Khi một Hệ hình mới ra đời thì sau đó sẽ bước vào giai đoạn hoàn thiện Hệ hình, tức là những người tiên phong trong Hệ hình đó phải xây dựng các chuẩn mực của Hệ hình mới và thuyết phục những người thuộc Hệ hình cũ gia nhập, đẩy Hệ hình đó lên đỉnh cao bằng chính thành tựu của bản thân mình.

Book Hunter: Xin cảm ơn PGS-TS Đỗ Lai Thúy! Hi vọng rằng trong thời gian sắp tới thế hệ trẻ, với sự giúp đỡ của những người đi trước có thể tạo ra đột phá và hoàn thiện Hệ hình Hậu Hiện đại ở Việt Nam.

Nguồn:Bookhunter (chungta.com)
----------

Ý kiến của tác giả Giáp Văn Dương:

Khi không trả lời được câu hỏi “nhà giáo là ai?” thì một người, dù có dạy học mấy chục năm đi chăng nữa, vẫn chỉ là một thợ dạy chứ chưa phải là một nhà giáo đích thực. Vì một lẽ hiển như, người ta không thể là một thứ mà người ta không biết. Người ta cũng không thể làm tốt một việc mà người ta không hiểu. Về mặt hình thức, một thợ dạy có thể vượt qua mọi kiểm tra chuyên môn bởi các thợ dạy khác, nhưng từ trong sâu thẳm, người đó không phải là một nhà giáo đích thực, và chỉ đang thực hiện công việc đó như một công việc để kiếm sống.
...
Tuy nhiên, tuổi sinh học có thể khác hoàn toàn so với tuổi tuổi trí tuệ. Một người có tuổi sinh học 60 chưa chắc đã có tuổi trí tuệ tương ứng. Người đó thậm chí vẫn còn trong giai đoạn vị thành niên về mặt trí tuệ. Vì thế, tình trạng vị thành niên mà Kant nói đến, ắt hẳn phải là vị thành niên về mặt trí tuệ, chứ không phải là vị thành niên về mặt sinh học, vì vị thành niên sinh học sẽ tự động chấm dứt khi một người bước qua tuổi 16.
...
Tuy nhiên, với những người sống ở phương Đông, thì khai sáng sẽ không chỉ đơn thuần là câu chuyện của của lý tính, của tư duy độc lập. Với văn hóa phương Đông, khai sáng còn mang trong mình nội hàm về sự giác ngộ. Đó là sự giác ngộ về chính bản thân mình và cuộc sống xung quanh. Đó là đi xuyên qua các giới hạn của ngôn ngữ và lý tính. Đó là một truyền thống văn hóa và một thực hành khai sáng khác hẳn so với phương Tây.

Vì lẽ đó, khai sáng của người phương Đông là một câu chuyện thú vị và phức tạp hơn câu chuyện ở phương Tây rất nhiều. Trải nghiệm khai sáng ở phương Đông cũng chấn động và sâu sắc hơn chuyện hãy dám biết rất nhiều. Vì biết thì còn nằm trong tư duy và lý tính. Còn giác ngộ thì vượt qua các giới hạn của tư duy và lý tính. Đó là một trải nghiệm chủ quan – bản thể chỉ người trong cuộc mới cảm nhận được, chứ không thể diễn giải bằng ngôn từ cho người khác hiểu. Một người nếu đã đi qua trải nghiệm này sẽ trở thành một con người tự do và tỉnh thức, vượt thoát khỏi các ước định của xã hội, về chính họ và về chính xã hội.

Nguồn: Nhà giáo khai sáng - TiaSang

----------
Jack Ma nói chuyện: "chưa có???? > hãy tạo ra nó"
https://www.youtube.com/watch?v=fBCqRftHyQc
----------

Chuyện về một TS. Harvard người Việt

19/07/2005 11:38 GMT+7

"Một trong những nghiên cứu sinh Ph.D xuất sắc nhất của Havard", "một tiến sĩ đẳng cấp thế giới trong lĩnh vực kinh tế học phát triển". Ít ai ngờ lời khen ngợi của một trong những nhà kinh tế học nổi danh nhất thế giới, G.S Dale Jorgenson, lại dành cho một nghiên cứu sinh đến từ VN: TS. Vũ Minh Khương.

R49Jxuer.jpgPhóng toR49Jxuer.jpg
"Một trong những nghiên cứu sinh Ph.D xuất sắc nhất của Havard", "một tiến sĩ đẳng cấp thế giới trong lĩnh vực kinh tế học phát triển". Ít ai ngờ lời khen ngợi của một trong những nhà kinh tế học nổi danh nhất thế giới, G.S Dale Jorgenson, lại dành cho một nghiên cứu sinh đến từ VN: TS. Vũ Minh Khương.
Mang tên gọi "Phân tích những ảnh hưởng của công nghệ thông tin tới tăng trưởng kinh tế toàn cầu", đề tài luận án tiến sĩ của anh đã "sục" vào một lĩnh vực kinh tế học còn khá mới mẻ của thế giới. Mặc dù vậy, luận án của Khương đã nhận được nhiều lời ngợi khen của các giáo sư Harvard nổi tiếng.
"Anh đã mở ra nghiên cứu về tác động của đầu tư vào CNTT trong việc đưa những nền kinh tế đang phát triển như VN nhanh chóng tiến tới đẳng cấp, chuẩn mực của các quốc gia công nghiệp hoá khác. Hiển nhiên là các tiến bộ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ sẽ đạt được nhanh chóng hơn, tạo ra nền tảng phong phú cho những kế hoạch đầu tư hơn là nông nghiệp và sản xuất, nơi mà công nghệ truyền thống vẫn giữ địa vị chủ đạo".
Vì thế, "Luận án của Khương rất ấn tượng cả về quy mô và đóng góp mới". Nhà kinh tế lừng danh thế giới, GS. Dale Jorgenson nhận xét.
Còn GS. Dwight Perkins thì cho rằng, "đó là nghiên cứu một cách hệ thống nhất về chủ đề này và sẽ rất hữu ích trong việc định hướng chính sách trong các ngành này ở nhiều nước, trong đó có VN".
Có trong tay bằng MBA tại Harvard Business School, bảo vệ thành công xuất sắc luận án tiến sĩ tại ĐH Harvard, được khắc tên vào bảng treo ở nơi trang trọng của trường Kenedy về thành tích giảng dạy, được Ngân hàng Thế giới và nhiều tổ chức nghiên cứu tổ chức seminar để trình bày kết quả nghiên cứu, Vũ Minh Khương có lẽ đứng trong số những người mở đầu cho thành quả xuất sắc ở đẳng cấp quốc tế mà các sinh viên VN đạt được kể từ thời đổi mới.
29 tuổi, làm hồi sinh một XN bên bờ vực phá sản
Tháng 12-1988, lần đầu tiên ở Hải Phòng, người ta chứng kiến một cuộc thi hi hữu: thi tuyển GĐ cho XN hoá chất Sông Cấm. Có một người đã nhận được hơn 90% số phiếu bầu và nhậm chức GĐ trong sự hân hoan của công nhân. Đó là Vũ Minh Khương, một thanh niên trẻ ở tuổi 29.
Sau này, ông Đoàn Duy Thành, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng kể lại: "Ngày đó, ai cũng sợ không dám nhận trách nhiệm lãnh đạo Sông Cấm vì xí nghiệp này làm ăn thua lỗ kéo dài, đơn từ kiện tụng chồng chất”.
Khương tiếp nhận Sông Cấm trong một tình thế gần như tuyệt vọng: tiền gửi không còn, ngân hàng khoá tài khoản vì XN không có khả năng trả nợ, hầu hết công nhân phải tạm nghỉ việc trong khi cuộc sống vô cùng khó khăn.
"Trong bối cảnh khó khăn tuyệt vọng ấy, tinh thần hy sinh và tấm lòng sâu sắc của đội ngũ công nhân đã cho tôi một sức mạnh kỳ lạ. Tôi dựa vào chính sự ủng hộ của họ để cắt giảm gần 200 công nhân dôi dư cho chuyển đổi mặt hàng sản xuất; đồng thời tích cực động viên anh chị em kỹ thuật hợp tác với Viện Hoá Công nghiệp tiếp thu công nghệ và sản phẩm mới. Tôi cũng thuyết phục được ngân hàng công thương ủng hộ phương án đổi mới sản xuất và họ đã cho vay rất tận tình. Ngày đó, tham nhũng, tiêu cực còn ít lắm nên mọi việc giải quyết khá trôi chảy dựa trên sự thấu tình, đạt lý".‎
Những ngày gian nan ấy vẫn còn sống động trong ký ức của anh.
Điều kỳ diệu đã đến khi cuối năm 1989, Sông Cấm vượt qua giai đoạn suy sụp và đi vào phát triển nhanh chóng.
Cho đến giờ, nhiều công nhân của Sông Cấm (nay là một DN tư nhân) vẫn không thể quên niềm vui bất ngờ khi họ nhận được nhẫn vàng và xe đạp mini, một tài sản lớn khối người ao ước từ tay lãnh đạo XN. Với những người đã quen lo "chạy ăn từng bữa", lúc nào cũng thấp thỏm nỗi lo thất nghiệp và "chết đói" trong những năm đất nước còn chập chững bước ra từ thời kỳ bao cấp thì đó quả là một sự kiện đáng nhớ.
"Tôi luôn tin rằng, khi Nhà nước muốn giúp phát triển một địa phương hay một DN, tìm kiếm và gửi về một người lãnh đạo có phẩm chất và khả năng ưu tú quý hơn ngàn lần việc bao cấp, tài trợ vốn và dự án thông qua một đội ngũ quản lý yếu về phẩm chất và năng lực".
Thực ra, đấy không phải lần đầu anh tiếp nhận Sông Cấm từ hai bàn tay trắng. Hai năm trước, anh đã nhận trách nhiệm PGĐ Sông Cấm trong một tình thế hiểm nghèo không kém.
Ở cái tuổi 75, nguyên Phó Chủ tịch HĐBT một thời Đoàn Duy Thành vẫn chưa quên lá thư tâm huyết của một người con đất Cảng nơi phương xa bày tỏ những suy nghĩ đồng điệu với ông về công cuộc đổi mới, về hướng đi của thành phố. (Phải nói thêm là lúc đó, Hải Phòng nổi lên như một điểm sáng trong cả nước với những cải cách táo bạo của ông Bí thư Thành uỷ như khoán chui, đào sông lấn biển, ngói hoá nông thôn... Song không phải lúc nào những đổi mới “mạnh tay” của ông Thành cũng nhận được sự đồng tình, ủng hộ - NV).
Ông Bí thư đã cho đăng báo lá thư và đáp lại trân trọng. Bất ngờ hơn, sau đó, ông lại nhận được lá thư thứ hai với một đề nghị táo bạo: xin làm GĐ một XN quốc doanh trên bờ phá sản để thử nghiệm khả năng xoay chuyển. Khi đó, Vũ Minh Khương đang có một cuộc sống ổn định tại TP.HCM với một công việc là mơ ước của nhiều người: chuyên gia phân tích lập trình cho máy tính IBM/360/40, cán bộ cốt cán của Trung tâm Điện toán, Công ty Điện lực II. Công việc mà 3 năm trước, anh lính phục viên Khương đã phải gõ cửa tới hàng chục trung tâm máy tính, trải qua bao cuộc gặp thất bại mới tìm được.
Gạt ngoài tai những lời khuyên can, từ giã vợ con, anh hăm hở “vác ba lô con cóc” quay về thành phố Cảng quê hương sau nhiều tháng trắc trở trong xin chuyển công tác. Không ít người cho anh “gàn”: làm gì có chuyện một người đã có gia đình và công việc thuận lợi ở một thành phố lớn nhất nước lại xin đi.
Còn anh chỉ lý giải một cách giản dị cho hành động nhiều người cho rằng "phi thực tế" ấy. Tuổi thơ anh lớn lên ở Hải Phòng, cha mẹ anh vẫn còn ở đó. Thời trai trẻ, anh vẫn ước mơ thành phố quê hương mình sẽ vươn lên tầm vóc quốc tế, trong đó có sự góp sức của anh. "Tôi rạo rực lắm khi đọc những bài trên báo Sài Gòn giải phóngtrân trọng nỗ lực đổi mới và cải cách của nhân dân Hải Phòng dưới sự lãnh đạo của ông Đoàn Duy Thành".
Nhận xét về Khương, nhiều người từng làm việc, tiếp xúc với anh đều ấn tượng về những suy nghĩ sâu sắc, kiến giải thấu tình đạt lý và hơn hết là tâm huyết của anh.
“Ngay từ lần gặp đầu tiên, Khương đã gây ấn tượng với tôi như là người hiểu sâu sắc công việc của Ngân hàng Thế giới ở Việt Nam”, Ông Tim Campbell, một chuyên gia cao cấp của Ngân hàng Thế giới (WB) nhớ lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của ông với Vũ Minh Khương khi ông làm việc tại VN. “Trong hai năm đó, chúng tôi thường dựa vào những nhận xét và đánh giá thông tuệ của Khương”.
Nhưng ấn tượng sống động nhất trong ký ức ông Campbell về Khương lại là lòng nhiệt tình và tâm huyết thực sự với đất nước. "Trong các câu chuyện của mình, ông Khương thường nói rất nhiều về hoài bão của mình cho đất nước VN. Gốc rễ sâu sắc của Khương là ở đây và anh ấy đã chia sẻ những cảm xúc, khao khát của mình với tôi. Nỗ lực của Khương ở Hải Phòng trong hợp tác với Ngân hàng Thế giới (WB) và sau này ở Trường ĐH Harvard luôn hướng tới tầm nhìn dài hơi mà ông đã xác định: giúp ích cho đất nước. Khương là con người truyền cảm hứng cho người đối diện theo cách đó".
Anh thì kể một cách giản dị về tuổi thơ mình như cội nguồn hun đúc ý chí mãnh liệt trong anh.
"Như bao bạn bè cùng thế hệ, tôi lớn lên trong những năm tháng khốc liệt của chiến tranh. Từ những năm phổ thông ở Hải Phòng đến những năm ở khoa toán của ĐHTH Hà Nội, tôi nỗ lực học tập và luôn luôn ở vị trí xuất sắc hàng đầu với ước muốn theo chân những tấm gương khoa học sáng chói thời đó...".
Những ai sinh ra trong tiếng bom rơi, đạn rền, lớn lên bằng bát cơm độn khoai, độn sắn, bằng những giờ học dang dở, luôn bị ngắt quãng bởi tiếng kẻng báo động và “thấp thỏm” lo chạy hầm tránh bom sẽ hiểu đó không phải là "lên gân", hay "hô khẩu hiệu"...
Có lẽ, chính ước mơ ấy đã giúp anh đi qua những năm tháng sinh viên nơi giảng đường khoa toán ĐHTH Hà Nội với tấm bằng xuất sắc. Đi qua những bữa ăn chỉ một bát cơm độn “bo bo” cứng, trệu trạo nhai giữa hai giờ lên lớp. Đi qua cả rất nhiều đêm không ngủ vì dạ dày lép kẹp, rận rệp đốt nhoi nhói. Đi qua những ngày “đói đến hoa mắt”, cày từng trang sách dưới ánh đèn tù mù.
Con đường trở thành một TS. Harvard xuất sắc...
Khi hoạt động của XN Hoá chất Sông cấm đã trở nên sống động và phát triển nhanh chóng với sự đoàn kết nhất trí cao của tập thể CBCNV, Vũ Minh Khương quyết định tìm kiếm con đường đi học ở nước ngoài. "Tôi muốn đến được một quốc gia phồn vinh và dốc lòng học hỏi để có được một tầm hiểu biết sâu rộng cho sự nghiệp tương lai".
Những năm đầu thời kỳ đổi mới, tiếng Anh là một cái gì đó lạ lẫm chứ chưa trở nên "thời thượng" như bây giờ, ông GĐ Khương dù "bù đầu" với công việc quản lý DN nhưng vẫn cố gắng học thứ ngoại ngữ này với một nỗ lực đặc biệt. Anh “cày nát” các băng cassette dạy tiếng Anh trên các chặng đường công tác từ Hải phòng đi Hà nội và các địa phương; với vốn tiếng Anh còn ít ỏi, anh tận dụng mọi cơ hội làm việc với các doanh nhân nước ngoài để thực hành, học hỏi.
Sự chuẩn bị tích cực cùng cơ hội đã tạo nên may mắn. Năm 1992, anh được tiếp nhận vào trường QTKD Harvard và lên đường sang Mỹ học tập. Tại ĐH Hardvard, anh đã nhanh chóng chinh phục được các giáo sư và bạn học. Giáo sư Carl Sloan nhận xét: “tôi kinh ngạc thấy một sinh viên từ một nước đang phát triển có được khả năng phân tích sâu sắc như vậy”. Chính sự đánh giá cao của các GS trường QTKD Harvard trong giai đoạn này đã giúp Vũ Minh Khương trở lại Harvard một cách thuận lợi để theo đuổi học vị tiến sĩ.
Lấy xong bằng MBA ở trường QTKD Harvard, anh về nước với "khao khát đóng góp kiến thức của mình cho sự nghiệp phát triển đất nước, đặc biệt với TP. Hải Phòng".
"Tôi mong muốn sớm có cơ hội trở thành lãnh đạo xuất sắc của Hải Phòng, góp phần đưa thành phố lên tầm vóc quốc tế và trở thành động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp hiện đại hoá đất nước. Tôi luôn có niềm tin mãnh liệt là các thành phố như Hải Phòng, Đà Nẵng, TP.HCM, Hà Nội có thể có được bộ máy quản lý chất lượng cao như Singapore nếu chúng ta hết sức tìm kiếm và trọng dụng cán bộ ưu tú từ mọi nguồn. Và đó sẽ là khâu then chốt để Việt Nam cất cánh, một khi môi trường kinh tế vĩ mô đã khá thuận lợi".
Thế nhưng, những kỳ vọng của con người thường hay đối mặt với thực tế nghiệt ngã. Lòng nhiệt tình của anh đã không ít lần bị "dội nước lạnh" khi những đề xuất cải cách của anh bị chối từ.
"Khương là con người của hành động, của suy nghĩ và có tâm huyết thực sự". Ông Đoàn Duy Thành nhận xét.
Tâm huyết ấy luôn là nguồn sức mạnh tiềm tàng giúp anh vượt qua bao nản lòng, thất vọng, nuôi cho anh niềm tin khi con đường đi của Khương ở Hải Phòng gặp quá nhiều trắc trở: Tôi có đề nghị rất nhiều lần với lãnh đạo TP là cho tôi làm GĐ Sở Công nghiệp (lúc này anh là Phó Văn phòng UBND TP. Hải Phòng), là ngành tôi thực sự tâm huyết cho một nỗ lực cải cách, nhưng không được chấp nhận‎.
Anh cảm nhận “TP đã trở nên quen với cách nghĩ là có được vị trí lãnh đạo là do qui hoạch và may mắn chứ không phải do chiến công và đóng góp". Sau ba năm nỗ lực công tác ở UBND TP, anh hiểu rằng cách tốt nhất để đóng góp cho đất nước là “trở thành cán bộ khoa học xuất sắc về quản lý kinh tế”. Quyết định ấy đó đưa anh trở lại với Harvard lần thứ hai. Hơn bốn năm trời học tập và làm việc trong một môi trường với những thách thức khắc nghiệt của một trường ĐH đẳng cấp hàng đầu thế giới, không phải ai cũng có thể thích nghi và tồn tại. Nhưng một lần nữa anh đã vượt lên bằng ý chí sắt đá và tinh thần thực sự cầu thị.
“Tôi muốn hiểu biết thật thấu đáo những thách đố, cơ hội và con đường đi mà Việt Nam cần phải nắm bắt để đuổi kịp Nhật Bản, Hàn Quốc; đồng thời mong muốn góp phần làm người Việt Nam mình có thể ngẩng cao đầu ở trường ĐH danh tiếng này”.
“Vũ Minh Khương là một trong những học sinh xuất sắc nhất của tôi, một TS đẳng cấp thế giới về kinh tế học phát triển”. Có lẽ giờ anh đã có thể ngẩng cao đầu với lời ngợi khen của một trong những nhà kinh tế học nổi tiếng nhất thế giới.
... đến triết lý kỳ lạ về chữ VIỆT
Tấm bằng TS Harvard, sự thừa nhận của những GS hàng đầu thế giới đang hứa hẹn trước mắt anh những cơ hội đầy hấp dẫn trên đất Mỹ. Anh đã được mời làm GS thỉnh giảng tại một số trường ĐH của Hoa Kỳ.
Nhưng với Vũ Minh Khương, giấc mơ cháy bỏng thời trẻ vẫn luôn khắc khoải khôn nguôi. Và anh đang âm thầm chuẩn bị cho một cuộc trở về để đem những kiến thức đã có phục vụ cho quá trình phát triển của đất nước. Anh coi công việc hiện tại ở đất nước bạn, dù thuận lợi đến mấy, chỉ là một bước trong quá trình chuẩn bị này.
Vũ Minh Khương không muốn nói nhiều về bản thân, về những thành công đã qua của mình. Được hỏi về khả năng đóng góp của anh trong tương lai, ông Tim Campbell cho rằng: “Sự đóng góp lớn của ông Khương sẽ kết nối các giá trị văn hoá, lịch sử sống còn của VN với các xu hướng và cơ hội đang nổi lên trong thế giới bên ngoài. Sự cam kết sâu sắc của Khương với VN, trí tuệ chói sáng, nhiệt tâm và kiến thức về một số hệ thống kinh tế và xã hội sẽ đem lại cho Khương khả năng đóng góp cao”.
“Trong ba năm tới, tôi dự kiến trở thành một chuyên gia kinh tế xuất sắc ở tầm vóc thế giới, đồng thời tích cực giúp sức vào công cuộc đào tạo và truyền bá kiến thức trong lĩnh vực phát triển kinh tế và hội nhập toàn cầu cho thế hệ trẻ Việt Nam” - giọng nói của anh mạnh mẽ, tự tin.
Trò chuyện với Khương, anh tin rằng nâng cao ý chí và phẩm chất dân tộc là chìa khoá then chốt tạo nên sức bật mạnh mẽ cho sự nghiệp phát triển đất nước. Anh suy tư về dân tộc và cảm nhận chữ "VIỆT" có ý nghĩa sâu sắc lắm: V là Vision, có nghĩa là tầm nhìn; I là Integrity, có nghĩa là trung trực; E là Energetic, nghĩa là nghị lực; T là Talent, nghĩa là tài năng.
Theo Khương: "Dân tộc VN ta sẽ làm nên sự nghiệp phát triển thần kỳ trong những thập kỷ tới nếu mỗi người chúng ta, đặc biệt đội ngũ chủ chốt trong ba trụ cột nền tảng của sự nghiệp phát triển: nhà nước, doanh nghiệp, và giáo dục - trí thức, dốc lòng dốc sức rèn luyện và hun đúc phẩm chất VIỆT: có tầm nhìn sâu rộng; chính trực; tràn đầy nghị lực, và thực sự tài năng".
Ở tuổi ngoài 40, anh đã sẵn sàng cho một hành trình mới.
Nguồn: Chuyện về một TS. Harvard người Việt (tuoitre.vn)
----------
Phát biểu của Mark Zuckerberg tại Harvard 2017

https://www.youtube.com/watch?v=lu8bxnAf4wk

---------
Ý kiến của Dương Quốc Việt:

"Những chỉ tiêu bốc đồng, thường được đề ra, trước hết bởi những người rất thiếu hiểu biết, thứ nữa là rất thiếu xây dựng, trách nhiệm, hay có thể học đòi mà không hiểu bản chất của công việc, hoặc đôi khi còn là những thủ đoạn để hướng đến những  mục đích khác... Thông thường những chỉ tiêu bốc đồng được áp đặt xuống công chúng, sẽ để lại những hệ quả nghiêm trọng. Nó có thể sẽ gây hoang mang trong công chúng, kích thích “làm thì láo báo cáo thì hay”... Tệ hại hơn, đâu đó còn ứng xử với nghiên cứu khoa học như kiểu lao động tạo ra những sản phẩm theo quý-theo mùa, rất xa lạ với sáng tạo khoa học. Điều này sẽ gây bất lợi cho những cá nhân đeo đuổi những công bố có chất lượng cao.    

Cuối cùng người viết cho rằng, thay vì tạo sức ép phi thực tế lên môi trường học thuật hiện nay, đặc biệt trong sáng tạo khoa học, nên  đòi hỏi chất lượng cao hơn, hay theo chuẩn hội nhập đối với tiến sĩ, phó giáo sư và giáo sư. Để làm sao có sự cân đối giữa số lượng học hàm học vị cao  với số lượng và chất lượng các công bố quốc tế. Và hơn tất cả, là cần biết đưa ra những mục tiêu đúng đắn-phù hợp-khả thi, để động viên kích thích sự phát triển không ngừng. Rằng đó mới chính là cách làm bài bản, kiến tạo. Rằng cần phải nghiêm khắc xử lý với những nơi đưa ra những chỉ tiêu bốc đồng, làm suy giảm lòng tin, gây hoang mang trong cộng đồng. Đặc biệt ở những nơi cần sự “tĩnh lặng” như môi trường học thuật."
(16/9/2017)

Nguồn: Bàn về những chỉ tiêu bốc đồng (tiasang)

----------
Mới đi nghe thầy Nguyễn Hùng Sơn seminar về Rough Set theory (nghe xong thấy trời đất quay quay, chả hiểu gì ẹ ẹ) (dalat 29/7/2017)

"Chợt nhận ra rằng, trí tuệ nhân tạo hiện đang là ngành “hot” bậc nhất thế giới. Không phải ngẫu nhiên báo chí đưa tin, mới tháng 9/2016 vừa rồi, 5 ông lớn là Facebook, Amazon, Google, IBM và Microsoft đã công bố kế hoạch hợp tác để phát triển trí tuệ nhân tạo. Và trí tuệ nhân tạo trước mắt đang “cướp” dần công việc của những thủ thư trên toàn cầu với cỗ máy tìm kiếm Google, “cướp” dần nghề mưu sinh của các bác tài với những đội xe Uber tự lái…

Bạn tôi, GS.TSKH Nguyễn Hùng Sơn – người đang giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học Tổng hợp Warszawa (Ba Lan), với chuyên môn về trí tuệ nhân tạo. Đồng thời là Phó Tổng biên tập phụ trách điều hành của Tạp chí Khoa học Fundamenta Informaticae (Cơ sở của tin học) – một tạp chí quốc tế (trong danh sách ISI) có tòa soạn tại Ba Lan, và là biên tập viên, người phản biện của một số tạp chí chuyên ngành quốc tế khác."

Nguồn: Chuyện với người nhân tạo trí tuệ (tienphong)

----------
"Có lần tôi phải đi công tác ở đại bản doanh tại thành phố Mountain View, buổi trưa đang xếp hàng lấy cơm, một lúc có ông nào cao to đang bàn luận chuyện gì say sưa lắm sau lưng, quay lại thì đụng ngay ông Urs Holzle – ông trùm của mạng nhện các trung tâm tính toán của Google khi đó.
Một lần nữa, ngày thứ Sáu, tôi lần mò đến gần sân khấu để nghe cho rõ cậu Larry đang nói gì, suýt nữa thì tông vào ông Vic Gundotra, sếp của hệ điều hành Android, cũng đang lang bang ở đó.  Ông này giỏi và có duyên ăn nói lắm.  Ông ấy giới thiệu sản phẩm mới thì kiến trong lỗ cũng muốn bò ra.  Bọn nhân viên đến sớm đã chiếm hết ghế, sếp to đến trễ cũng phải chầu rìa luôn.
Nói dông dài vậy không phải để khoe, mà tôi chỉ muốn nêu một ý, là phần lớn các sếp to ở Google có tác phong bình dị, gần gũi với nhân viên. 
Trong công việc, họ ra quyết định.  Nhưng trong sinh hoạt thường ngày, họ không khác nhân viên là mấy.  Nhờ vậy, họ dễ dàng nghe được, thấu hiểu va tiếp nhận suy nghĩ, nguyện vọng và cả sáng kiến của cấp dưới. 
Chắc chắn rằng sự thành công vượt bậc của Google một phần lớn là do cái văn hóa làm sếp, văn hóa lãnh đạo của họ."

Nguồn: Sếp Google, sếp IBM và văn hóa lãnh đạo ở Mỹ trong mắt một kỹ sư Việt (soha)
----------
Đại học 4.0 - tác giả Vương Thanh Sơn

"Nếu hiểu cách mạng công nghiệp 1.0 vào cuối thế kỷ 18 là cơ khí hóa với máy chạy bằng thủy điện và hơi nước, cách mạng công nghiệp 2.0 vào đầu thế kỷ 20 là sản xuất hàng loạt qua động cơ điện và dây chuyền sản xuất, và cách mạng công nghiệp 3.0 vào đầu thập niên 1970là tự động hóa qua máy tính,  cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay là Internet vạn vật (Internet of Things – IOT) hay còn gọi là Hệ thống Thực Ảo  (Cyber Physical Systems – CPS)."

"Trong mô hình giáo dục đại học truyền thống, “Thầy" là yếu tố quan trọng nhất nếu không nói đó là yếu tố duy nhất; trong mô hình này thông thường thầy giảng và trò nghe thụ động, với sự tương tác một chiều là chính. Trong mô hình mới ICH, yếu tố “liên kết tương tác” và yếu tố “công cụ thông minh”  được nhấn mạnh, do đó vai trò của sinh viên trở thành quan trọng nòng cốt, sinh viên có thể học bất cứ lúc nào, bất kỳ chỗ nào, bất cứ ai với trình độ nào đều có cơ hội học theo cách thức phù hợp. Phương pháp học dựa vào sinh viên là chính, thầy chỉ phụ trách giữ nhịp, tạo động lực, giám sát và đánh giá. Giáo trình, tài liệu và công cụ học tập được cung cấp trước cho sinh viên; sinh viên phải học tập, nghiên cứu, thực tập theo năng lực, tính cách và điều kiện của mình, chỉ gặp gỡ thầy và trợ giảng khi cần thiết, khi cần thảo luận về những vấn đề phức tạp, tinh tế, nâng cao. Đó là mô hình học hỏi dựa trên sinh viên và đánh giá theo năng lực (student-based flip learning and competency based assessment). "

"Một điều quan trọng cần nhấn mạnh là mô hình Đại học 4.0 hay mô hình ICH không thể hiểu lầm là mô hình trực tuyến (online) đơn thuần khi so sánh với mô hình đại học truyền thống. Mô hình Đại học 4.0 hay mô hình ICH là mô hình thông minh: mở và thoáng, nâng cao, mới mẻ, hiệu quả, chất lượng, trộn lẫn học trong lớp và học trực tuyến (open flexible blended learning model). Mô hình 4.0 có yếu tố kết nối thông minh đa dạng theo nghĩa rộng; không phải là mô hình trực tuyến (online) giới hạn, đồng hóa với đào tạo chất lượng thấp. "

Nguồn: Đại học Việt Nam cần liên tục nghiên cứu cải cách theo hướng Đại học 4.0 (nguoidothi)

----------
Cách mạng công nghiệp 4.0 - Hồ Tú Bảo

"Báo chí thường mô tả Công nghiệp 4.0 với các thành tựu của Trí tuệ Nhân tạo, với máy móc tự động và thông minh như ô-tô tự lái, in ấn 3 chiều, kết nối vạn vật (IoT), công nghệ sinh học và công nghệ nano,… Nhưng cốt lõi của những đột phá này là gì? Có hay không điểm chung của các đột phá đó?"
...
'Phiên bản số' của các thực thể cho phép ta nối chúng với nhau trên các hệ thống máy tính hoặc nối chúng vào internet, và tạo ra các không gian số tương ứng với thế giới thực thể của chúng ta. Những hệ thống kết nối các thực thể và 'phiên bản số' của chúng được gọi là các hệ kết nối không gian số-thực thể, tạm dịch theo nghĩa của từ cyber-physical systems.
Đây là một khái niệm cơ bản của Cách mạng công nghiệp 4.0, phản ánh mối liên hệ của sản xuất tiến hành trong thế giới các thực thể nhưng quá trình tính toán được làm trên không gian số và kết quả tính toán này được trả lại dùng cho sản xuất trong thế giới các thực thể. Đây là thay đổi cơ bản về phương thức sản xuất của con người, sản xuất được điều khiển và hỗ trợ quyết định từ không gian số."
Nguồn: Hiểu về Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (vnexpress.net)
----------
Ý kiến của tác giả Trần Ngọc Vương
"Tiếp đó là yêu cầu về chất lượng: Tôi nhiệt liệt ủng hộ việc quốc tế hóa các sản phẩm nghiên cứu, giáo dục và đào tạo, nhưng cũng cực lực phản đối lối “quốc tế hóa” kiểu “thầy bói xem voi” như đang được đề xuất!

Việc yêu cầu các ứng viên cho cả học hàm và học vị phải có công bố quốc tế đang diễn ra một cách vô lối. Cụ thể, quy định yêu cầu các ứng viên phải có công bố khoa học ở hai tạp chí quốc tế là ISI (Viện thông tin khoa học của Công ty Thomson có trụ sở tại Mỹ) và tạp chí Scopus (cơ sở dữ kiện của tập đoàn xuất bản Elsevier ở Hà Lan) là chưa hợp lý.

Bởi lẽ, đây là hai tổ chức công bố khoa học phi chính phủ, bị nhiều tạp chí quốc tế không thừa nhận giá trị, thậm chí bị yêu cầu cho ra khỏi các thống kê khoa học nghiêm túc.

Trong khi có nhiều công trình khoa học mang tính lịch sử, văn hóa có ý nghĩa với Việt Nam sẽ không bao giờ được đăng trên hai tạp chí trên vì các cơ sở ấy không quan tâm đến những chủ đề này. Điều đó dẫn đến hệ quả nhiều nhà khoa học có những công trình có giá trị sẽ bị loại bỏ ra khỏi danh sách.

Ngoài ra, mảng khoa học xã hội và nhân văn khó có công bố quốc tế là điều có thể hình dung được. Câu hỏi “Có còn hay không đường biên giới trong khoa học hiện nay” chắc dễ trả lời thôi!

Hơn nữa, chúng ta cũng nên chú ý đến vấn đề tạo ra công bố quốc tế của chính mình , cho chính mình, chẳng hạn, có thể coi hội thảo quốc tế về Việt Nam học là công bố quốc tế, nơi các nhà khoa học Việt Nam công bố những nghiên cứu về chính mình cho thế giới biết.

Con đường mà chúng ta nên lựa chọn là tạo ra sản phẩm khoa học mang tầm cỡ quốc tế thu hút mối quan tâm của khoa học quốc tế chứ không phải chỉ nhăm nhăm mang sản phẩm của chúng ta công bố ra bên ngoài, cầu cạnh để được thừa nhận!

Một số ngành “mũi nhọn”, “có đẳng cấp quốc tế”,  chẳng hạn Viện Toán học có những nhà khoa học nổi tiếng, có cả Viện Toán cao cấp, chúng ta hoàn toàn có thể làm được điều này.

Tôi nghĩ, để nâng cao chất lượng đội ngũ GS cũng như PGS chúng ta nên thay đổi một số quy định cứng nhắc  áp dụng cho mọi đối tượng, mọi lĩnh vực.

Đòi hỏi “thành thạo ngoại ngữ trong chuyên môn” đối với các khoa học khác nhau chắc chắn là tạo ra áp lực, tạo ra những thách thức rất khác nhau trong các khoa học khác nhau, và giữa các khoa học tự nhiên – công nghệ với các khoa học xã hội nhân văn càng là những sự khác biệt rất lớn.

Việc dịch những sáng tạo phẩm của tâm hồn và tinh thần, cho dẫu từ một ngôn ngữ “láng giềng” sang một ngôn ngữ “láng giềng” khác, đã khiến bao nhiêu dịch giả xuất sắc trên thế giới “vò đầu bứt tai”, chắc chắn khác việc dịch và lĩnh hội những sáng tạo phẩm thuộc lĩnh vực tự nhiên và công nghệ!

Năng lực sử dụng ngoại ngữ hãy cứ là đòi hỏi bắt buộc đối với các ứng viên cho học vị tiến sĩ, các ứng viên cho các chức danh giáo sư và phó giáo sư, nhưng cần cụ thể hóa hơn nhiều nữa để cho các quy định, các tiêu chí, tiêu chuẩn như vậy không trở thành “vô kế khả thi” rồi rốt cuộc “đề ra rồi để đấy”!"

Nguồn: Tiêu chuẩn GS,PGS: Tôi cực lực phản đối "quốc tế hóa" kiểu “thầy bói xem voi” (infonet)
----------
Ý kiến của Pierre Darriulat:
"Các trường đại học nên hiểu rằng việc cử hàng loạt sinh viên của mình ra nước ngoài là điều sai lầm. Họ nên xây dựng các chương trình nhằm thu hút nhà khoa học nước ngoài đồng thời hấp dẫn sinh viên tài năng ở lại trong nước. Chúng ta cần khiến thế hệ trẻ thay đổi quan niệm định kiến rằng muốn thành tài thì không thể học ở trong nước mà phải du học nước ngoài."

Nguồn: Hãy giữ người tài ở lại (tiasang)
----------
"Vả chăng về chuyện số đông hay số ít, còn có thể có một điều khác nữa. Cứ nhìn quanh ra xa một chút mà xem, ngay cả ở những nước giàu có nhất và tiên tiến nhất thì giáo dục của người ta cũng không cứ một mực quyết đào tạo ra toàn những con người tinh hoa cho xã hội đâu. Không có xã hội nào toàn tinh hoa. Có tinh hoa, và có số đông. Đều cần. Văn hóa là vậy. Giáo dục cũng hẳn là vậy. Có cái đại chúng được học rộng rãi làm lực lượng. Và có bộ phận nhỏ tinh hoa dắt dẫn sự phát triển, và từng bước nâng cái số đông rộng rãi kia lên. Các nền văn minh, từ rất xa xưa, đều đã tiến hóa như vậy.

Có lẽ giáo dục ở ta chưa rõ được điều này. Ta chưa giải quyết đúng bài toán có thật về mối quan hệ giữa yêu cầu số lượng và yêu cầu chất lượng theo hướng này. Chắc đó cũng là nguyên nhân khiến ta lúng túng, loay hoay, như đang thấy."

Nguồn: Đại chúng hay tinh hoa - Nguyên Ngọc (http://www.thesaigontimes.vn/156031/Dai-chung-hay-tinh-hoa.html)
----------
"Cánh đây đã lâu, Peter Drucker (một nhà quản trị lỗi lạc) nói, “Hệ thống giáo dục truyền thống luôn dạy cho người học một thế giới không còn tồn tại… Ba mươi năm nữa, các khuôn viên đại học sẽ chỉ còn là phế tích. Chúng ta phải bắt đầu giảng dạy cho các lớp học ở bên ngoài trường đại học, qua vệ tinh và video hai chiều, với chi phí thấp nhất.”

Thực ra viễn cảnh theo tầm nhìn của Peter Drucker ngày nay đang diễn ra rồi, như một thực tế mới.  Tư duy đổi mới quản trị của Drucker nay đã được những nhà cải cách giáo dục vận dụng còn táo bạo hơn. Trong một bài diễn văn đọc tại một buổi lễ tốt nghiệp cách đây vài năm, bà Drew Gilpin Faust (Chủ tịch Harvard) đã nhấn mạnh (trích tóm tắt), Nhiệm vụ của chúng ta là làm đảo lộn các định kiến, làm cho những gì đã quen thuộc trở thành xa lạ… làm cho giới trẻ lạc hướng và giúp họ tìm cách định hướng lại mình.
Muốn đổi mới quản trị, phải thay đổi tư duy “truyền thống”. Để đào tạo một thế hệ quản trị mới, không nên nhồi nhét kiến thức theo “quy trình cũ”, vì Socrates đã nói, “Giáo dục không phải là đổ đầy bình, mà là châm một ngọn lửa. Nếu điều tiền nhân đã dạy cách đây 2 thế kỷ mà người ta vẫn chưa hiểu, thì đành tự an ủi rằng, “Chỉ có hai điều vô hạn là vũ trụ và sự ngu xuẩn của con người, và tôi không dám chắc về điều thứ nhất” (Einstein)."

Nguồn: Đổi mới tư duy quản trị (kimdunghn)
---------
"Trân trọng những nỗ lực tìm tòi theo kiểu Hai Lúa tự chế trực thăng, sinh viên và kỹ thuật viên làm robot, nhưng người ta không thể không thấy rằng đó là kiểu nỗ lực cũ người mới ta. Không sáng tạo ra cái mới, chỉ là đổ công của để mô phỏng những gì mà nhân loại đã sáng tạo ra từ lâu. Dù có chế tác nó trong điều kiện của riêng ta, bằng nguyên vật liệu của xứ ta, thêm thắt những ý tưởng nho nhỏ của ta, thì không ai hồn nhiên mà nghĩ rằng đó là phát minh."

Nguồn: Thụ hưởng và nhái (THD)
----------

5 người Việt lọt vào tốp những nhà khoa học hàng đầu thế giới

"Như mọi năm, qua trang web hcr.stateofinnovation.thomsonreuters.com, Thomson Reuters đã công bố danh sách 3.266 nhà khoa học thuộc 21 chuyên ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội có công bố có hệ số trích dẫn cao (Highly Cited Papers). Danh sách các nhà khoa học thuộc tốp 1% được trích dẫn nhiều nhất này được Thomson Reuters xác định dựa trên cơ sở các chỉ số khoa học cốt lõi (Essential Science Indicators ESI)1 của tổng số 128.887 bài báo có hệ số trích dẫn cao trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2014.

Mỗi công bố của các nhà khoa học được xếp hạng trong tốp 1% được tính theo sự phân bố của chỉ số ESI trong từng lĩnh vực và theo năm của công bố. Thomson Reuters cũng lựa chọn mỗi lĩnh vực nghiên cứu một tạp chí chuyên ngành đại diện và chỉ xét các công bố trên các tạp chí đó, với trường hợp các tạp chí đa ngành như Science, Nature, Proceedings of the National Academy of Sciences (Mỹ)… thì tính theo một phương pháp phân tích riêng."

Nguồn: http://bizlive.vn/nhan-vat/5-nguoi-viet-lot-vao-top-nhung-nha-khoa-hoc-hang-dau-the-gioi-2218765.html
----------
Xây dựng một ngôi trường trên mây - Sugata Mitra

https://www.ted.com/talks/sugata_mitra_build_a_school_in_the_cloud?language=vi#t-12213

---------
Ý kiến của GS Ngô Bảo Châu:

"Tôi nghĩ vấn đề của chúng ta là sự thiếu chuẩn bị về mặt khoa học, bao gồm môi trường làm việc cũng như vấn đề con người. Cho đến nay, trong giới khoa học VN vẫn có một quan niệm sai lầm là quan hệ quốc tế là để tạo… quan hệ, vì thế vẫn rất mất thời gian với các màn giao đãi như đón tiếp, gặp lãnh đạo, bắt tay, chụp ảnh, mời chào nhau đi ăn, đi tham quan.v.v… Cần phải thay đổi cách nhìn đó để tạo ra một mối quan hệ hợp tác bình đẳng, để các nhà khoa học quốc tế thấy họ sang ta không chỉ để đi “đổi gió”. Muốn vậy chúng ta phải có các nhà khoa học đang làm khoa học một cách tích cực, hợp tác với các nhà khoa học quốc tế trên tâm thế chúng ta cần làm việc chứ không phải lợi dụng uy tín khoa học hay tên tuổi của họ. Việc hợp tác chỉ bền vững khi mà họ cảm thấy những gì họ trao đổi với cộng sự VN có sự tiến bộ về mặt khoa học, bởi đấy là cái khiến họ cảm thấy không bị mất thời gian.

Thực tiễn của VIASM cho thấy để tạo một môi trường khoa học tích cực, từ đó thu hút sự tham gia cộng tác các nhà khoa học quốc tế không khó như mình tưởng và cũng không quá tốn kém (kinh phí hoạt động của VIASM mỗi năm chỉ 14 – 15 tỷ đồng). Vấn đề là mình phải tạo một không gian làm việc mà ở đó chất lượng học thuật được đặt ưu tiên hàng đầu thì tự mỗi nhà nghiên cứu sẽ hăng say làm việc một cách tự nhiên bởi nhu cầu nội tại của mỗi người, chứ không phải vì bị lãnh đạo ép làm. Không một nhà khoa học nào vì bị lãnh đạo ép mà làm việc được cả."

Nguồn: https://hocthenao.vn/2015/12/22/moi-giao-su-quoc-te-den-viet-nam-dung-huu-hao-phong-van-ngo-bao-chau-quy-hien/
----------
Nobel Y học 2016

"Thế là giải Nobel y sinh học 2016 (trị giá 937,399 USD) lọt về tay của một nhà khoa học Nhật: Giáo sư Yoshinori Oshumi thuộc Học Viện Công nghệ Tokyo (Tokyo Institute of Technology). Chỉ một người duy nhất! Ông sinh năm 1945, và nay là 71 tuổi. Gs Yoshinori Oshumi là người Nhật thứ 4 được trao giải Nobel y sinh học, và người Nhật thứ 25 được trao giải Nobel. Với giải thưởng này, thuật ngữ autophagy bây giờ có lẽ không còn quá xa lạ với công chúng."

"Gs Yoshinori Oshumi có vài lời khuyên cho giới khoa học trẻ rất chí lí. Ông nói rằng sau một thời gian loay hoay với hướng đi của người khác mà không thành công, ông nhận ra là ông phải có hướng đi riêng."

Nguồn: http://tuanvannguyen.blogspot.com/2016/10/giai-nobel-y-sinh-hoc-2016-tai-sinh-te.html#more
----------
Bài học về phát triển đại học của Nhật Bản - tóm tắt của tác giả NVT

"Thời gian mà các đại học vương triều ra đời trùng hợp với giai đoạn cách mạng kĩ nghệ ở Nhật. Cuộc cách mạng kĩ nghệ chủ yếu xảy ra ở ngành dệt và kĩ nghệ nhẹ, và chính các ngành “nhẹ” này đã là những viên gạch lót đường để Nhật trở thành một cường quốc kĩ nghệ sau này. Các đại học vương triều có nhiệm vụ phải đào tạo các kĩ sư và khoa học gia, chuyên gia để đáp ứng nhu cầu của cuộc cách mạng kĩ nghệ. Mặc dù ý thức được rằng đại học còn phải đào tạo các nhà nghiên cứu, nhưng trong giai đoạn này khi mà công nghệ của Nhật còn quá thô sơ, nên họ chủ yếu nhắm vào việc đào tạo chuyên gia lành nghề, và việc đào tạo chuyên gia nghiên cứu chỉ tập trung ở các đại học lớn như Tokyo và Kyoto. 

Song song với sự ra đời của các đại học vương triều, Nhật còn thành lập một số trường cao đẳng kĩ thuật (technical college). Các trường cao đẳng có nhiệm vụ giới thiệu các công nghệ của thế giới phương Tây nhưng có ứng dụng thực tế vào điều kiện phát triển ở Nhật. Đến năm 1910, Nhật đã có 17 trường cao đẳng kĩ thuật, và mỗi năm huấn luyện được hàng ngàn chuyên viên kĩ thuật."

Nguồn: http://tuanvannguyen.blogspot.com/2010/01/qua-trinh-phat-trien-giao-duc-ai-hoc-o.html


----------
Bài nói chuyện hay của tác giả: Giản Tư Trung
(sách, thầy, trải nghiệm, tấm gương, Internet)

https://www.youtube.com/watch?v=YNnHVEA_X4U
---------

Xã hội tri thức: kĩ năng thay cho giáo dục? (Bùi Văn Nam Sơn)

"Khái niệm kỹ năng đang chiếm ưu thế tuyệt đối trong tư duy giáo dục của xã hội tri thức với những ưu điểm không thể phủ nhận của nó, ít nhất về mặt lợi ích kinh tế.Nhưng mặt khác, cái giá phải trả cho việc tăng cường và tinh vi hóa các biện pháp “kỷ luật hóa” để thống trị và điều khiển cá nhân cũng không hề nhỏ. Các lý thuyết và mô hình về kỹ năng không tránh khỏi sẽ xung đột ngày càng gay gắt với lý tưởng và khát vọng khai phóng cố hữu của giáo dục. Khái niệm kỹnăng không đủ sức nắm bắt trọn vẹn mối quan hệ tinh tế giữa giáo dục (theo nghĩa đào luyện văn hóa) và tính chủ thể. Pongratz đi đến nhận định có tính phê phán như sau: “Những gì đã được lý thuyết giáo dục cổ điển hiểu về tính chủ thể - sự phong phú nội tâm của chủ thể, bề sâu của mối tương quan với chính mình, bề rộng của chân trời cá nhân, năng lực trải nghiệm và tự phản tỉnh của tri thức – tất cả bị co lại dưới viễn tượng chức năng luận, trở thành một thứ“đầu ra” bị tiêu chuẩn hóa và đơn điệu”.

Mọi sự phát triển đều chứa đưng ít hay nhiều những nghịch lý cần phải nhận diện và suy ngẫm. Nếu giáo dục đúng nghĩa là mối quan hệ phản tỉnh với chính mình, với người khác và với thế giới chung quanh, thì ắt nó không chỉ đơn thuần là sở đắc những kỹ năng lỏng lẻo và phân tán. Ta cũng sẽ gặp những nghịch lý trong hai đặc điểm, hay đúng hơn, hai hệ quả còn lại của giáo dục trong xã hội tri thức: học tập suốt đời và tự học, cùng với việc kiểm tra và đánh giá tri thức."
Nguồn: Xã hội tri thức: kĩ năng thay cho giáo dục? (VHNA)
----------

Bài viết của Bùi Văn Nam Sơn...
...
"LÒNG HIẾU TRI NGUYÊN THỦY"
Con người ai cũng ham hiểu biết. Trong đời sống hàng ngày, ta cần và muốn biết nhiều thứ để có thể đạt được những mục đích nhất định. Chị đi học tiếng Anh, anh đi học vi tính... để dễ tìm việc. Nhưng, đạt được mục đích rồi thì thôi, chuyển sang nhu cầu hiểu biết mới. "Lòng hiếu tri nguyên thủy" thì khác! Nó thể hiện trong việc đi tìm chân lý trong đại học. Nơi đây, thầy và trò gắn bó với nhau vì cùng chia sẻ một đam mê bất tận, một khát vọng không bao giờ thỏa mãn là luôn vươn tới trong nhận thức, dù biết rằng không có chỗ dừng lại và không thể dừng lại. "Ý niệm đại học" chính là sự nuôi dưỡng lòng hiếu tri nguyên thủy khôn nguôi ấy. Không có nó soi đường, đại học sẽ sa đọa thành... trường phổ thông cấp 4 hay cơ sở khổng lồ chỉ biết cung cấp nhân lực cho nền kinh tế và bộ máy cai trị. Tinh thần đại học, như thế, ngay từ bản tính và từ đầu, không thể tương thích với mọi chính sách công cụ hóa dù về chính trị hay kinh tế.
 ...
Nguồn: "Ý niệm đại học": Linh hồn của giáo dục cấp cao/VHNA
----------
Văn hóa niềm tin

Có một câu ngạn ngữ cổ nói về người Phần Lan như sau: “Phần Lan là một gã khổng lồ nhìn người bằng cặp mắt ngây thơ”. Câu nói này hàm ý người Phần Lan có văn hóa tin người và họ cũng áp dụng văn hóa này vào trong hệ thống giáo dục của mình.

Nhà trường không áp đặt thành tích điểm số, xếp loại hay thi đua khen thưởng lên giáo viên và học sinh. Mục tiêu tối thượng của họ là làm cho học sinh cảm thấy vui, hạnh phúc và tự tin khi các em thành công cũng như khi các em thất bại.

Bà Petra Packalen, cán bộ Hội đồng giáo dục quốc gia Phần Lan, nói với nhóm nhà báo chúng tôi rằng sự khác biệt giữa hệ thống giáo dục Phần Lan và các nước phương Tây khác chính là trong khi hệ thống giáo dục phương Tây dựa vào “việc đánh giá kết quả bằng cách kiểm tra” thì hệ thống giáo dục Phần Lan dựa vào “văn hóa đặt niềm tin vào chuyên môn của nhà giáo và hiệu trưởng trong việc phán đoán cái gì là tốt nhất cho học sinh”.

Giáo viên được tự do thể hiện giáo trình. Họ tự quyết định phương pháp giảng dạy và sử dụng sách giáo khoa, tài liệu phù hợp. Quy định thanh tra trường học được bãi bỏ vào năm 1990 và cũng không có đánh giá nội bộ giáo viên. Ngoài ra, hệ thống giáo dục Phần Lan chính là ít có sự đánh giá và hoàn toàn không có sự cạnh tranh. Cụ thể là không có đánh giá kết quả quốc gia hằng năm, chỉ có đánh giá trúng tuyển vào đại học và đánh giá các môn học chỉ diễn ra mỗi vài năm.

Cường quốc giáo dục Phần Lan/tuoitre
----------
Từ chiếc vé xem kịch đến một trường đại học

Bài học lớn nhất của chúng tôi là từ ông Hoàng Tụy. Ông từng viết bài trên Tia Sáng, nói vấn đề ở VN là luôn chỉ tự so sánh với chính mình, từ khoa học, y dược đến mọi ngành khác. VN chỉ tự kết nối với bản thân. Quan điểm của ông Hoàng Tụy là muốn trở thành xuất sắc thì anh phải kết nối với thế giới" - Thomas Vallely

Từ chiếc vé xem kịch đến một trường đại học/tuoitre
----------------
Bùi Văn Nam Sơn viết về triết hiện sinh

"Triết hiện sinh, như thế, không phải là triết học trường ốc với sách vở mốc meo, mà là hoạt động: triết học là làm triết lý. Ý nghĩa của hoạt động này, nói như Karl Jaspers, là góp phần "soi sáng" hiện hữu của con người trong một hoàn cảnh nhất định. Chức năng của nó là cho ta thấy rằng cá nhân mình là duy nhất, là tự do, là có thể chọn lựa, dù ở trong bất kỳ tình huống nào."

Triết hiện sinh: "tiến lên để sống"/VHNA
---------------
Đặng Hoàng Nhu thể hiện bài hát "Có nhau trọn đời" bằng Ngôn ngữ kí hiệu (sign language) rất ấn tượng. (youtube)
Bài hát "Cô gái đến từ hôm qua" - do Thanh Hoa  thể hiện (youtube)

- Chỉ là được giao tiếp thôi thì người câm - điếc đã phải cố gắng tới mức nào.
- Thầm khâm phục những người đã vì người khuyết tật. 

"Thực ra, NNKH (ngôn ngữ kí hiệu) chính là cuộc sống, vì nó bắt nguồn từ cuộc sống. Dù có hay không nhận thức ra, nhưng chúng ta vẫn đã và đang sử dụng NNKH rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày. Khoa học đã chứng minh chúng ta truyền tải ngôn ngữ 70% thông qua các biện pháp không lời, tức là cử chỉ, điệu bộ, nét mặt… Một biện pháp đơn giản để nhận ra tầm quan trọng của ngôn ngữ không lời là bạn hãy thử nói chuyện mà nhắm mắt và hoàn toàn không cử động thân thể. Chỉ 30 phút thôi, bạn sẽ ngạc nhiên nhận thấy hiệu quả câu chuyện rất thấp. Chúng ta hoàn toàn mất phương hướng và khả năng phán đoán nếu không có các cử chỉ, điệu bộ, nét mắt của người đối thoại "hướng dẫn", cũng như nếu không dùng tay chân thì hiệu quả truyền đạt củng giảm hẳn.

Bạn làm thế nào để diễn đạt tính từ "to lớn"? Có phải dùng 2 tay khoát một vòng tròn lớn trong không khí? Thế nếu ai đó giả bộ cầm micro đung đưa nhún nhảy trước miệng thì bạn nghĩ đến động từ gì? Có phải "hát" không? Bạn làm thế nào để biểu hiện đang "gõ cửa"? Có phải giả bộ gõ gõ vào một cái cửa không khí trước mặt không? Diễn tả động từ "ngủ" thì sao? Có phải áp tay lên má và nhắm mắt lại không?

Như thế, NNKH tràn ngập trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta có thể không nhận thức, nhưng nó vẫn tồn tại, phát triển và giúp cho cuộc sống tiện lợi, thoải mái hơn. Nói cách khác, chính những người bình thường "phát minh" ra NNKH, người câm điếc làm một việc là mô phỏng và hệ thống hóa tất cả lại thành một thứ ngôn ngữ của riêng họ.

Vậy tại sao không học NNKH để hoàn thiện hơn 70% khả năng truyền tải thông tin trong mỗi chúng ta?"
(vi.wikipedia)
---------------
Từ tật xấu của người Việt nghĩ về xã hội văn minh - Giản Tư Trung
"...
Với cách hiểu về trí tuệ và đạo đức như vậy, và nếu ví con người là một cỗ xe thì ta có thể nói rằng đạo đức là “chân thắng” và “chân ga”, còn trí tuệ văn hóa sẽ là “tay lái” và trí tuệ chuyên môn là “con đường dài”.

Nếu chân thắng hỏng thì có nguy cơ lao xuống vực sâu, còn nếu chân ga hư thì không thể vượt qua đèo cao. Nếu tay lái hỏng thì dù chân ga và chân thắng đều xịn (luôn muốn sống tốt, sống thiện) thì vẫn lầm đường lạc lối. Và dù có chân ga, chân thắng và tay lái tốt, nhưng nếu không có con đường dài thì cũng không thể đi xa.

Như vậy, cả trước mắt cũng như lâu dài, trí tuệ và đạo đức là giải pháp căn cơ nhất không chỉ để triệt diệt thói hư tật xấu của cá nhân và cộng đồng, mà còn giúp hình thành nên con người văn minh và khi có nhiều con người văn minh thì sẽ hình thành nên xã hội văn minh.

Con đường duy nhất để hình thành trí tuệ và đạo đức đó chính là giáo dục, bao gồm cả giáo dục của gia đình, giáo dục của nhà trường, giáo dục của xã hội và nhất là giáo dục tự thân. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng không phải thứ giáo dục nào cũng có thể hình thành nên con người đạo đức và trí tuệ.

Chỉ có thứ giáo dục khai phóng mới có thể hình thành nên con người khai minh với đầy đủ đạo đức và trí tuệ, từ đó mới có thể sống một cách tự do và đầy trách nhiệm. Còn giáo dục u minh thì sẽ tạo ra con người u minh hay vô minh (ấu trĩ, ngộ nhận, dốt mà không biết mình dốt, sai mà không biết mình sai, xấu mà không nghĩ mình xấu).

Việc khai phóng và cải tạo bản thân sẽ do mỗi người tự chịu trách nhiệm. Giáo dục khai phóng trong gia đình sẽ do ông bà, cha mẹ quyết định và giáo dục khai phóng trong nhà trường hay cơ quan sẽ do người thầy hay người sếp quyết định.

Còn để có giáo dục khai phóng cho toàn xã hội thì cần phải có một công cuộc canh tân văn hóa - giáo dục sâu rộng và dài lâu. Điều này chủ yếu lại nằm trong tay của các nhà quản trị quốc gia, đồng thời cũng tùy thuộc nhiều vào cái công nghệ quản trị quốc gia mà mình lựa chọn.

Từ tật xấu của người Việt nghĩ về xã hội văn minh/giantutrung.vn
---------------
"Tôi nói rõ là ngay cả những nước trước đây đã từng có lịch sử giáo dục huy hoàng như Trung Quốc, Ấn Độ... từ lâu đã phải chuyển sang học tập các nền giáo dục kể trên (Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nga), vì vậy Việt Nam đừng mong trở thành ông trưởng họ thứ 6, mà hãy học tập người ta làm cho tốt."
Việt Nam đừng mơ trở thành "ông trưởng họ" thứ 6/GDVN
---------------